Ra trận

…Các nhà văn: Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Văn Bổng, Phan Tứ, Nguyên Ngọc, là những người đầu tiên vào Nam tiếp sức cùng các nhà văn sẵn có trong đó: Giang Nam, Thanh Hải… Một số họa sĩ trẻ ở miền Bắc như Lê Lam, Thái Hà, cũng xung phong vào chia lửa cùng số họa sĩ: Huỳnh Phương Đông, Cổ Tấn Long Châu.

Họ là những người dám xông pha trên các chiến trường, ngày đêm lăn lộn với đồng bào, chịu đựng thiếu thốn, bom đạn ác liệt. Chị Dương Thị Xuân Quý đã dũng cảm hy sinh ở Quảng Nam trong một trận càn quét của địch. Những giáo viên, kỹ sư, bác sĩ, nhà văn và nghệ sĩ ấy trước khi đi đã chấp nhận khổ luyện, tập đeo đá đến 30 kilôgam, leo đồi dốc, trước khi lên đường, và hầu hết đều đi đến đích. Nhà văn Anh Đức vào tận Kiên Giang, viết được tác phẩm Hòn Đất có tiếng vang lớn, miêu tả rất cảm động cuộc chiến đấu của nhân dân ta ở mảnh đất hẻo lánh này.

Về tỉnh Cà Mau, anh lại viết thư trao đổi với nhà văn Nguyễn Tuân, thư đi thư lại của họ được tập hợp lại thành tập Bức thư Cà Mau đọc rất dễ vào lòng người, giúp ta hiểu được nỗi gian truân ác liệt và khí phách của quân dân vùng cực Nam của Tổ quốc. Nguyễn Văn Bổng dám xông xáo, vào sống ở Sài Gòn, viết được một số tác phẩm nói được lên cuộc sống và phong trào đấu tranh của đồng bào vùng tạm chiến.

Các họa sĩ Lê Lam, Thái Hà, Huỳnh Phương Đông đi đến đâu, đều vẽ tranh và triển lãm ở đó. Nhiều tranh ký họa bằng bút sắt, màu nước được gửi ra triển lãm ở Hà Nội, phản ảnh sinh động những trận đánh và những chiến sĩ, những bà mẹ miền Nam… Bác Hồ từng đến xem, rất khen ngợi những bức tranh chân thật và cảm động ấy. Các đội văn công gọn, nhẹ, phục vụ chiến sĩ, đồng bào đạt hiệu quả bất ngờ, đến nỗi có đại đội xin được mang tên Tô Lan Phương, một nữ ca sĩ nổi tiếng.

Những bài hát lúc đó của các nhạc sĩ Hoàng Việt, Xuân Hồng, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Tài Tuệ, Hoàng Hiệp, Nguyễn Văn Tý, Thuận Yến, Nguyễn Văn Thương… thật dễ vào lòng người, là công cụ làm công tác tư tưởng rất lợi hại. Phương Tây có câu nói “Khi đại bác gầm thì họa mi thôi hót”. Nhưng ở Việt Nam thì không phải thế, “Tiếng hát át tiếng bom”. Thật hào hùng. Các đội văn công thật sự là một binh chủng, có sức mạnh hàng trung đoàn. Kể cũng đặc biệt, hiếm có nơi nào như nước ta huy động được văn nghệ sĩ ra trận “dễ” như vậy. Đó là do lòng yêu nước và khí phách anh hùng, bản chất dân tộc và tài năng của họ.

Các đoàn làm phim ở miền Bắc đã quay nhiều phim thời sự, tài liệu rất chân thật. Và đã sáng tác một số phim truyện có giá trị, xúc động lòng người và có tiếng vang ra thế giới, như: Con chim vành khuyên, Chị Tư Hậu, Chung một dòng sông, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm… Sau này điều kiện thuận lợi hơn, ngay ở miền Nam có các tổ làm phim của Mai Lộc, Khương Mễ, Phạm Khắc, đặc biệt là Hồng Sến (tác giả bộ phim Cánh đồng hoang), một nghệ sĩ tài hoa. Những thước phim mặt trận đều do các anh quay, và đến nay vẫn là vô giá.

Năm 1963, đúng là tôi đã rút ruột để viết bài Miền Nam đó!

Nếu tâm sự cùng ta, bạn hỏi:

Tiếng nào trong muôn ngàn tiếng nói

Như nỗi niềm nhức nhối tim gan

Trong lòng ta, hai tiếng: miền Nam!

Có phải hỡi miền Nam anh dũng

Khi ta đứng lên cầm khẩu súng

Ta vì ta, ba chục triệu người

Cũng vì ba ngàn triệu trên đời!

Ôi, Tổ quốc giang sơn hùng vĩ

Đất anh hùng của thế kỷ hai mươi

Hãy kiêu hãnh: trên tuyến đầu chống Mỹ

Có miền Nam anh dũng tuyệt vời

Tháng 10 năm 1965, Bộ Chính trị phái tôi vào khu Bốn để góp sức với anh em. Tôi vào xin ý kiến Bác trước khi đi. Bác bảo ngay:

– Chú đã tính làm gì chưa?

Tôi thưa:

– Khu Bốn là một vùng nghèo đói, lại bị bom đạn thì tình thế rất khó khăn, các đảng bộ cũng chưa có nhiều kinh nghiệm. Trong cuộc chiến tranh phá hoại này, cháu nghĩ là có động viên được nhân dân hăng hái chiến đấu và sản xuất thì tình hình mới bền vững.

– Làm thế nào động viên được đồng bào? – Bác hỏi lại.

Tôi liền thưa:

– Dân mình thường nói: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Cho nên cần trước hết chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh…

Bác cười:

– Chú biết làm thế nào cho Đảng vững mạnh không?

– Dạ, phải giáo dục thật tốt các cán bộ, đảng viên.

– Ai giáo dục? – Bác hỏi lại.

Tôi cảm thấy lúng túng, nghĩ rằng chắc Bác có ý kiến lớn, bèn thưa:

– Xin Bác chỉ thị cho bọn cháu làm tốt.

Đến đây Bác nói ngay:

– Không nên hỏi Bác, mà nên hỏi dân mới đúng. Ai được dân tín nhiệm, khen giỏi cả hai mặt: sản xuất và chiến đấu, thì đó là đảng viên tốt, ai chưa được dân tin, thì cần giáo dục thêm. Những đồng chí được dân yêu mến, tin cậy nhất mới xứng đáng là người lãnh đạo của Đảng bộ. Trái lại, ai bị dân khinh ghét thì không thể lãnh đạo được, cần thay đổi ngay.

Nhiều chú bây giờ xa dân quá, những điều Bác vừa nói là kinh nghiệm xưa nay, nhưng không mấy chú thực hiện. Thậm chí, cứ để mãi trong Đảng những đảng viên hư hỏng, lười biếng, hèn nhát, bị dân oán giận, thì còn lãnh đạo được ai? Đó là ý kiến của Bác, chú có làm được không?

Bài học lớn về xây dựng Đảng, đơn giản thế mà bấy lâu nay, ta quên mất rồi. Đúng như Bác nói: Chỉ có dân mới biết được ai thật xứng đáng là cán bộ, đảng viên. Dân ta rất tốt, rất tinh, biết tin dân thì mới được dân tin.

Từ đáy lòng, tôi cảm ơn Bác đã dạy bảo và quyết tâm thực hiện kỳ được. Thế là vào Quảng Bình, tôi đưa ngay chỉ thị của Bác ra bàn. Mời các đồng chí tỉnh ủy, cả các đồng chí bí thư, thường vụ, xuống một số làng xã, làm ngay. Một tuần sau, anh em trở về tỉnh, báo cáo kết quả, thật bất ngờ. Chi bộ nào, kể cả bí thư, cũng được bà con thành thật nói rõ: ai giỏi, ai không giỏi về sản xuất và chiến đấu. Thậm chí có nơi, bí thư bỏ chạy trốn khi địch bắn phá, để mặc dân tự lo liệu, và cả làng đều hoang mang, lo sợ. Chi bộ liền họp ngay, cảnh cáo những đảng viên hèn nhát, bầu bí thư và chi ủy mới, gồm toàn những đồng chí được bà con khen ngợi nhất.

Sau này, mỗi khi nghe báo cáo về tình hình mất dân chủ trong Đảng và trong nhân dân, Bác thường bảo: “Các chú diễn giảng hai tiếng “dân chủ” sao mà rắc rối, dài dòng thế? Dân chủ thật ra có nghĩa là “Để cho dân được mở miệng”. Liệu có làm được, có dám làm thế không?

Tố Hữu (phải) trên đường vào chiến trường miền Nam.

Từ giữa năm 1965 đến 1968, tôi đã nhiều lần vào vùng “cán xoong” Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh, nơi liên tục ngày đêm bị máy bay Mỹ ném bom vô cùng ác liệt. Hầu hết tất cả các cây cầu đều bị phá hủy, nhiều trọng điểm giao thông suốt ngày đêm bom dội: Hố bom chồng lên hố bom. Mặc dù vậy, đêm đêm những đoàn quân và đoàn xe vẫn không ngừng tuôn ra mặt trận.

Các lực lượng công binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đã dũng cảm bảo đảm giao thông với tinh thần “Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”. Thời ấy, trên những chặng đường tuyến lửa ác liệt, thường thấy leo lét những ngọn đèn của các o dân quân đứng gác và những ngọn đèn ở các nút, các trọng điểm giao thông. Bài hát Ngọn đèn đứng gác phổ thơ của Chính Hữu và bài thơ Lửa đèn của Phạm Tiến Duật đã khắc họa rất sinh động và sâu sắc những ngọn đèn ấy.

Một hôm ở Quảng Bình, tôi yêu cầu tỉnh ủy giới thiệu cho tôi một số người tiêu biểu của phong trào chiến đấu. Anh Thoan, Bí thư tỉnh ủy và anh Thành, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, vốn nắm vững cơ sở, liền đề nghị tôi gặp mẹ Suốt, một bà chèo đò rất dũng cảm, hàng ngày đưa bộ đội qua sông Nhật Lệ dưới bom đạn địch.

Trưa hôm ấy, tỉnh ủy mời bà mẹ đến cơ quan, ăn cơm với chúng tôi. Bà có vẻ ngơ ngác, không hiểu đến làm gì. Tôi cầm tay bà và nói: Mẹ Suốt ơi, mẹ già rồi sao còn làm cái việc chèo đò cho mệt? Bà nhìn tôi hồi lâu như không hiểu tôi muốn gì? Rồi nói rất tự nhiên: “Ủa, chú nói chi lạ rứa? Tui già thì chỉ có việc chèo đò cho bộ đội mà không được à?”. Tôi bật cười, ôm lấy vai mẹ: “Ô hay, bọn tui khen mẹ đó chớ! Mà sao ông cũng đồng ý cho mẹ chèo chống dưới bom đạn?”. Đến đây, mẹ Suốt cười rất vui: “Ông có việc ông, đi khơi đi lộng. Còn tui có việc của tui, việc ai nấy làm. Cả làng, cả tỉnh đánh Mỹ mà nhà tui chịu thua à?”. Thế là mẹ kể cho tôi nghe cả cuộc đời cực khổ từ bé, phải đi ở cho người ta, lấy chồng đẻ con cả “một lũ” rồi phải đi sông đi biển đánh cá tôm kiếm ăn… Từ ngày Mỹ ném bom, mẹ liền xung phong đi chèo đò cho bộ đội qua sông, cả ngày lẫn đêm…

Gan chi gan rứa, mẹ nờ!

Mẹ rằng: cứu nước, mình chờ chi ai?

Chẳng bằng con gái, con trai

Sáu mươi, còn một chút tài đò đưa…

Tàu bay hắn bắn sớm trưa

Thì tui cứ việc nắng mưa đưa đò!

Tôi nói vui với bà: “Mẹ giỏi thiệt đó, nhưng sao không để bọn con gái chèo có hơn không?”. Bà liền bốp ngay: “Chú nói nghe không được. Bọn con gái chèo giỏi hơn tui thiệt, nhưng bọn hắn còn biết bắn súng. Để nó chèo thì mình mất cây súng à? Chú không nghe bọn con gái ở cái làng Ngư Thủy, họ bắn cả súng lớn, chìm mấy chiếc tàu to của Mỹ sao?”. Ôi, một bà như mẹ Suốt gan góc, khôn ngoan như thế, mà sau khi được “tuyên dương Anh hùng”, vẫn không chịu buông tay chèo. Cho đến một hôm, mẹ đã ngã xuống, hy sinh ngay trên bến quê hương Bảo Ninh, để lại cho con cháu muôn đời một tấm gương yêu nước và dũng cảm phi thường!…

~Nguồn: Trích hồi ký của Tố Hữu~