PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THƠ TỐ HỮU 

Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Tố Hữu là một chiến sĩ – thi sĩ, làm thơ trước hết là phải phục vụ sự nghiệp cách mạng, cho lý tưởng của Đảng. Trong thơ Tố Hữu từ trước đến sau, dù đề tài, nội dung cảm hứng có đa dạng đến đâu thì vẫn nhất quán ở chỗ lấy lý tưởng cách mạng, quan điểm chính trị làm hệ quy chiếu cách nhìn nhận và xúc cảm về mọi phương diện, mọi hiện tưởng của đời sống, kể cả đời sống riêng tư của chính nhà thơ. Với Tố Hữu, “ tả tình hay tả cảnh, kể chuyện mình hay kể chuyện người, viết về các vấn đề lớn hay về một sự việc nhỏ (…) là để nói cho được cái lý tưởng cộng sản ấy thôi” (Chế Lan Viên) 

Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị. Mọi sự kiện, vấn đề lớn của đời sống cách mạng, lý tưởng chính trị, những tình cảm chính trị thông qua trái tim nhạy cảm của nhà thơ đều có thể trở thành đề tài và cảm hứng nghệ thuật thực sự. Tố Hữu là nhà thơ của lẽ sống lớn, của những tình cảm lớn, niềm vui lớn của cách mạng và con người cách mạng. Đặc biệt ở những bước ngoặt trong đời sống cách mạng của dân tộc, hồn thơ Tố Hữu thường vang ứng nhạy bén và dào dạt cảm hứng, kết tinh trong những bài thơ đặc sắc, được sự đồng cảm và hưởng ứng rộng rãi của đông đảo công chúng. Xuân Diệu khẳng định “ Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình ”. Thơ Tố Hữu đã kế tục dòng thơ cách mạng đầu thế kỉ  XX  của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, thơ của các chiến sĩ cộng sản lớp trước ờ nửa đầu những năm 30 nhưng đã được đổi mới trên cơ sở vận dụng những thành tựu hiện đại hóa thơ ca đương thời, đem đến cho văn học cách mạng một tiếng thơ sôi nổi, trẻ trung, mới mẻ và tràn đầy cảm hứng lãng mạn, đã mở ra một khuynh  hướng lớn và có vị trí chủ đạo – khuynh hướng trữ tình chính trị – trong suốt mấy chục năm của nền thơ hiện đại Việt Nam.

Nội dung trữ tình chính trị trong thơ Tố Hữu thường tìm đến và gắn liền với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn. Khuynh hướng sử thi nổi bật trong thơ Tố Hữu nhất là ở những thời kì sau, kể từ cuối tập Việt Bắc. Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu ngay từ đầu đã là cái tôi chiến sĩ, về sau càng trở thành cái tôi nhân danh cộng đồng, nhân danh Đảng và dân tộc. Nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu là con người thể hiện tập trung những phẩm chất của giai cấp, dân tộc, đến cuộc kháng chiến chống Mĩ được nâng lên thành những hình tượng anh hùng mang tầm vóc thời đại và lịch sử, nhiều khi được thể hiện bằng bút pháp thần thoại hóa. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Tố Hữu là cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu hướng vào tương lai, khơi dậy niềm vui, lòng tin tưởng và niềm say mê với con đường cách mạng, ngợi ca nghĩa tình cách mạng và con người cách mạng. Do khuynh hướng cảm hứng ấy mà thơ Tố Hữu chú trọng tác động đến tình cảm, cảm xúc của người đọc, đặc biệt khai thác giá trị gợi cảm của nhạc điệu thơ.

Một nét đặc sắc của thơ Tố Hữu là có giọng điệu riêng rất dễ nhận ra. Đó là giọng tâm tình, ngọt ngào tha thiết, giọng của tình thương mến. Giọng điệu ấy có phần là do được thừa hưởng từ điệu tâm hồn con người xứ Huế với những câu ca, giọng hò tha thiết ngọt ngào của quê hương. Nhưng nó cũng được xuất phát từ một quan niệm của nhà thơ : “ Thơ là chuyện đồng điệu ( … ), thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí ’’. Nhà thơ đặc biệt dễ rung động với nghĩa tình cách mạng, luôn hướng đến đồng bào, đồng chí mà giãi bày tâm sự, trò chuyện, kêu gọi, nhắn nhủ. Thơ Tố Hữu phần nhiều có cách diễn đạt tự nhiên, hơi thơ liền mạch.

Kế tục truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện. Hiện thực đời sống cách mạng, những tình cảm chích trị, đạo lí cách mạng qua sự cảm nhận và thể hiện của Tố Hữu đã gắn bó, hòa nhập với truyền thống tinh thần tình cảm và đạo lí của dân tộc, làm phong phú thêm cho truyền thống ấy. Về thể thơ, Tố Hữu sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ dân tộc ( như lục bát, song thất lục bát, bốn chữ, năm chữ, bảy chữ ) và có những sáng tạo làm phong phú thêm cho các hình thức thơ ca này. Trong thơ Tố Hữu có thể bắt gặp một cách phổ biến những lối so sánh, các phép chuyển nghĩa và cách diễn đạt trong thơ ca dân gian đã trở nên quen thuộc với tâm hồn người Việt. Sáng tạo hình ảnh trong thơ Tố Hữu thiên về giá trị biểu hiện tình cảm hơn là giá trị tạo hình, thậm chí nhà thơ còn sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ tượng trưng khá quen thuộc. Chiều sâu của tính dân tộc trong thơ Tố Hữu là ở nhạc điệu, đặc biệt phong phú về vần và những phối âm trầm bổng nhịp nhàng nên dễ ngâm dễ thuộc. Nghệ thuật thơ Tố Hữu nghiêng về tính truyền thống hơn là sự tìm tòi đổi mới theo hướng hiện đại hóa.   

Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu.

Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người cách mạng.

Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ.

(Lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu,

Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản, 1946)

Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực.

Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là người nông dân nghèo khổ.

Hòang Trung Thông

(Chặng đường mới của chúng ta, 1961)

Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca.

Đặng Thai Mai

(Lời giới thiệu tập thơ Từ ấy, Văn học, 1959)

Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.

Phong cách dân tộc ở Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu chất nhạc, anh nắm rất vững cái âm điệu, vần điệu của dân tộc.

… Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính… Anh là một con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp.

Chế Lan Viên

(Lời nói đầu cho tuyển tập 1938 – 1963

Của Tố Hữu, Văn học, 1964)

Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình. Vậy thì dân tộc ấy có năng khiếu thơ thông qua nhà thi sĩ. Các dân tộc hiện đại, đã công nghiệp hóa rồi, đã bị san phẳng bởi những phương tiện tuyên truyền, không còn có một năng khiếu về hình tượng như thế nữa; không còn suối nguồn ở bản thân mình nữa. Nhưng Tố Hữu đắm mình trong dân tộc của mình, đồng thời là một thi sĩ độc đáo, một nhà sáng tạo ra các hình thể. Người ta càng cảm thấy điều đó rõ hơn khi anh nói một cách rất hay về thơ.

Pierre Emmanuel

(Lời tựa tập thơ Máu và hoa, xuất bản ở Pháp, năm 1975)

Tập thơ Máu và hoa này xuất bản vào mùa thu năm 1975. tôi tin rằng tạp chí Châu âu (Europe) sẽ đón chào nó như một sự kiện văn học.

Jacques Gaucheron

Con đường của Tố Hữu

(trong tập Máu và hoa (Sang et Fleurs) EFR, Paris, 1975)

Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ.

Xuân Diệu

(Tố Hữu với chúng tôi, 1975)

Một tiếng nói yêu thương luôn luôn chan hòa ánh sáng, tự nó cũng là ánh sáng, lại hết sức linh hoạt và uyển chuyển, mỗi lúc một khác, mỗi nơi một khác, kể cả những lúc chỉ là sự im lặng giữa các dòng thơ. Phải chăng đây chính là bản sắc riêng của thơ Tố Hữu.

Hòai Thanh

(Chuyện thơ, 1978)

Thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, càng ngày càng mới, vì nó thể hiện thế giới quan cách mạng của chủ nghĩa Mác, hệ tư tưởng vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là những tư tưởng càng ngày càng trở thành cách nhìn, nếp sống phổ biến của những con người mới của thời đại.

Như Phong

(Bình luận văn học, 1964)

Ðôi lời tâm giao với người bạn thơ Tố Hữu

-Nhân năm anh 80 tuổi (Âm lịch)-

Nhớ lại một thời chung chiến lũy

Hồn tươi trong thắm thiết tình người

Rồi sau đó những ngày vào ra lẩn quẩn

Những khóc cười mừng giận

Giấc mê tôi đằng đẵng thăng trầm

Trời vẫn xanh mây trắng vắng tri âm

Tia chớp nhục vinh lóe ngôi sao lạc

Ðã vèo đi nhanh thế một đời

Tồn đọng Anh và Tôi cùng bạc tóc

Ngẫm xa xưa mà gạn lọc chút yên vui.

 

****

 

Run rẩy niềm riêng Tôi so mình hạt cát

Nhìn sao rơi thăm thẳm đến vô cùng

Khi nhân loại sắp giao thừa thiên kỷ

Cầu Phật ban cho người ánh mắt bao dung

Hồn thi sĩ hẳn mấy lần khát vọng

Ôm vô thủy thiên hà vào mắt lệ vô chung

Anh với Tôi, đôi người thơ ngơ ngẩn

Lặng lẽ đồng hành về phía hư không

Chắc cõi ấy còn rưng thơ đất Việt

Mình sẽ gặp ai kia

Một thi sĩ đau thương đã viết:

“Bất tri tam bách dư niên…”

Hòang Cầm

[09:35:00 11-12-2002] 

Không gì có thể níu kéo ông ở lại trần gian với chúng ta được nữa, nhà thơ Tố Hữu đã nhẹ gót bước vào cõi vĩnh hằng, để lại cho chúng ta cả một sự nghiệp thơ ca đồ sộ cùng với những bài học về cách sống làm người rất quý giá. Cuộc đời ông là sự gắn kết bền chặt giữa hai yếu tố tiền định đúng như lời tự bạch của ông trước lúc lâm chung: ”Tôi làm thơ cũng vì sự nghiệp cách mạng. Đối với tôi: Trăm năm duyên kiếp Đảng và thơ…”.

Biết làm thơ từ khi mới sáu, bảy tuổi nhưng phải đến những năm 1937, 1938 trở đi, thơ của ông mới thực sự bộc lộ tài năng khác biệt. Trong khi các nhà thơ mới trốn vào tháp ngà nghệ thuật xa rời hiện thực đau khổ của đời sống cần lao như Chế Lan Viên khóc thương nước Chàm xưa cổ kính, Quách Tấn hoài nhớ những lâu đài vàng son rực rỡ của họ Tấn, họ Tạ bên Trung Quốc, Xuân Diệu dệt mộng yêu đương tưởng tượng, Hàn Mặc Tử thác loạn trong thơ Điên… thì Tố Hữu chỉ viết về cuộc đời có thực của những người dưới đáy xã hội.

 

Ý thức phản kháng, niềm khát khao thay đổi vận mệnh dân tộc, làm cho những người cần lao trở nên sung sướng và hạnh phúc hơn đã xuất hiện trong những bài thơ non nớt của tập Từ ấy. Tố Hữu hiểu rõ kiếp sống nhục nhằn của người kỹ nữ trên sông Hương và ông sẵn sàng hứa một lời hứa đầy lãng mạn, sáng tươi với ý thức của một thi nhân và của một chiến sĩ cách mạng kiên cường:

 

Trời ơi em biết khi mô

Thân em hết nhục dày vò năm canh

Tình ơi gian dối là tình

Thuyền em rách nát có lành được không?

Răng không, cô gái trên sông

Ngày mai cô sẽ từ trong ra ngoài

Thơm như hương lụy hoa lài

Sạch như nước suối ban mai giữa rừng.

 

Trên thực tế, cả đời ông đã cố gắng làm hết sức mình để thực hiện lời hứa với giai cấp cần lao. Được các đồng chí cộng sản như Phan Đăng Lưu giác ngộ, Tố Hữu tham gia Cách mạng với tất cả nhiệt huyết của tuổi trẻ. Thơ của ông thời kỳ này đã trở thành lời hiệu triệu giai cấp cần lao phá bỏ xích xiềng nô lệ, thực hiện cuộc giải phóng dân tộc bằng bất cứ giá nào:

 

Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là phải chịu tù đày

Là gươm kề tận cổ súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn một nửa…

 

Sức mạnh của lời hiệu triệu đấu tranh ấy đã khiến thực dân Pháp truy lùng ông khắp chốn. Năm 1939, Tố Hữu bị bắt và bị giam tại các nhà tù miền Trung, rồi sau bị chuyển lên tận nhà tù Lao Bảo. Tháng 3/1942, ông vượt ngục trở về tham gia lãnh đạo khởi nghĩa giải phóng Thừa Thiên-Huế. Đến cuộc kháng chiến trường kỳ (1946-1954), Tố Hữu lên Việt Bắc vừa tham gia chiến đấu, vừa làm thơ khích lệ đồng bào trên mọi mặt trận: chống mù chữ, chống đói, chống càn… Hơi thở của thời đại, của cuộc kháng chiến thần thánh ấy đã đi vào thơ ông rất tự nhiên, rất gần gũi như tiếng đào công sự chống càn vậy:

 

Lục cục

Lào cào

Đất đổ đá nhào

Nào anh bên nam

Nào em bên nữ

Thi nhau ta thử

Ai tài hơn ai

Anh tài thì em cũng tài

Đường dài ta xẻ sức ta lo gì?

Đường đi ngoắt ngoéo chữ chi

Hố ngang hố dọc chữ i chữ tờ…

 

Từ thực tế gian khổ ấy đến thắng lợi là cả một khoảng cách ”ba ngàn ngày không nghỉ”:

Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng.

 

Đáng chú ý, trong thơ Tố Hữu thời kỳ này là những bài thơ dài tràn đầy hào khí dân tộc (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên) hay mang âm hưởng trữ tình, đằm thắm da diết (Việt Bắc). Với Việt Bắc, Tố Hữu đã đạt tới đỉnh cao của thể lục bát. Vốn liếng ca dao thăng hoa cùng viễn cảnh hòa bình và ấm no của đất nước thời kỳ sau giải phóng.

 

Điểm khác biệt giữa ông và các nhà thơ khác là ngay trong khi cao hứng như vậy Tố Hữu vẫn đặt ra được một câu hỏi day dứt: Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa không? Sau này, Tố Hữu luôn day dứt với câu hỏi ấy. Ông bảo: ”Làm Cách mạng là phải hiểu câu Tiên thiên hạ chi ưu/ Hậu thiện hạ chi lạc. Nghĩa là lo trước cái lo của dân, sướng sau cái sướng của dân. Nhưng nhiều cán bộ của chúng ta giống như các ông quan lớn của dân vậy”. Nói về chuyện tham nhũng, tư túi hại dân thì ông không trả lời mà từ từ đưa bàn tay xòe rộng lên ngang cổ làm động tác cứa cứa ra, ý bảo: Với lũ sâu mọt hại dân thì chỉ có cách loại bỏ triệt để mà thôi! Thấy báo chí hay dùng từ nhà quê ông cũng bảo: ”Thật là xách mé! Ai là đồ nhà quê? Bố mẹ tôi cũng là nhà quê đấy, những người nhường cơm sẻ áo cho Cách mạng cũng là nhà quê đấy. Sao sớm quên ơn nghĩa của ngưòi dân đến thế, họ có từ lỗ nẻ chui lên đâu mà dám miệt thị người dân như thế?”.

 

Năm 1999, khi nhận xét về văn chương thơ phú bấy giờ, ông nói rất đau: ”Nhà văn, nhà thơ gì mà suốt ngày lang thang hết quán này đến quán khác, thơ hay làm sao được? Phải sống cùng với người dân, đau cái đau của dân, vui cái vui của dân thì mới làm văn, làm thơ được chứ, đừng nên cứ chửi đời một cách vô trách nhiệm…”. Bây giờ ông nằm đó, vĩnh viễn không nói gì được nữa, chúng ta mới nhận thấy những điều ông suy ngẫm đều vì lợi ích của người dân lao động. Hẳn ông đã nghĩ rất nhiều, kỳ vọng rất nhiều khi viết lời tự bạch đánh giá chính mình: Trăm năm duyên kiếp Đảng và thơ.

 

Nhà thơ Phạm Tiến Duật: ”Trước hết, Tố Hữu là một nhà cách mạng đầy nhiệt huyết; sau nữa là nhà thơ. Cách mạng là nền móng trong toàn bộ sự nghiệp thơ ca của ông. Chính vì lẽ đó, thơ ông mang đậm màu sắc cách mạng và tiếng nói của nhân dân. Với Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng ASEAN, Tố Hữu xứng đáng là một nhà văn hóa lớn, một tấm gương lớn cho mọi thế hệ; đặc biệt là những nhà thơ trẻ. Nét nổi bật mà không thể phủ nhận, đó là: Thơ ông đã làm trong sáng thêm ngôn ngữ tiếng Việt. Chỉ với hai tập thơ: ”Từ ấy” và ”Việt Bắc” cũng đã đủ để đánh giá về con người Tố Hữu và sự nghiệp thơ ca của ông đối với Cách mạng và nhân dân”.

 

Nhà thơ Vũ Quần Phương: ”Tố Hữu vừa là một nhà chính trị, vừa là một nhà thơ. Giữa chính trị và thơ hầu như không có ranh giới rõ rệt. Phải khẳng định rằng, Cách mạng đã làm nên sự nghiệp thơ ca của ông. Thơ ông là để giúp nước và cứu nước. Trong thế kỷ XX, không có ai có thể viết hay hơn Tố Hữu. Không dễ gì có được một nửa thế kỷ lớp trẻ hướng theo Cách mạng, làm Cách mạng cũng chính từ sự khơi nguồn trong thơ Tố Hữu. Tố Hữu may mắn được gặp Đảng và Đảng cũng may mắn có được Tố Hữu trong hàng ngũ của mình. Phải nói, đó là một Con người kỳ vĩ”.

Nhạc sĩ Văn Ký: ”Tố Hữu là một thi sĩ – chiến sĩ. Tố Hữu – nhà thơ của Cách mạng mùa thu. Thơ ông đã đánh thức tâm hồn tôi từ thời niên thiếu giữa một đêm đen nô lệ. Đã nhen lên trong tôi ngọn lửa của tình yêu đất nước. Thơ Tố Hữu đi đến tận cùng nỗi đau, nhưng không hề bi lụy, ngược lại ông giục ta đi tới. Niềm vui phơi phới vẫn như kìm nén, không dễ dãi thỏa mãn mà âm vang như một bản hùng ca. Ngay cả khi căm giận tột cùng, thơ ông vẫn toát lên tình bao la nhân ái. Xin vĩnh biệt và cảm ơn Tố Hữu, nhà thơ lớn của thời đại Hồ Chí Minh, nhà thơ yêu kính của tôi và của mọi người”.

 

~Nguồn: VASC Orient~

Tố Hữu với Quy Nhơn

 

Nhà thơ Tố Hữu đã có duyên nợ với Quy Nhơn. Tiếc rằng, những dịp ấy lại là khi nhà thơ bị địch bắt đi đày lên Buôn Mê Thuột hay khi bị giam ở xà lim Quy Nhơn. Nhà thơ có 7 bài thơ, có ghi chú là làm ở xà lim Quy Nhơn là: Người lính đêm (6-1941); Ba tiếng (8-1941); Cảm thông (9-1941); Người về (9-1941); Tiếng chuông nhà thờ (9-1941); Đời thợ (10-1941); Một tiếng rao đêm (11-1941).

 

Chính nhà thơ Tố Hữu kể lại những ngày tháng đó trong hồi ký của mình “Nhớ lại một thời” (NXB. Văn hoá thông tin, 2002), và qua đấy chúng ta thêm hiểu biết về một số bài thơ mà Tố Hữu sáng tác ở xà lim Quy Nhơn như sau:

 

“Tôi ở Daklay mới hơn một tháng, thì có lệnh phải về gấp “trả nợ” sáu tháng tù tăng án, vì đấu tranh ở Huế. Thế là lại phải xuống Quy Nhơn một lần nữa. Về đây, mới biết rõ tin bọn phát xít Đức tấn công Liên Xô từ cuối tháng sáu. (….) Trong hoàn cảnh ấy, đối với tôi, những ngày tháng ở nhà tù Quy Nhơn thật vô cùng căng thẳng, may nhờ có vài anh lính gác tốt bụng, tôi vẫn được xem báo, thoi dõi chiến sự hằng ngày ở Liên Xô và cả tình hình bọn quân phiệt hoành hành ở châu Á. Mỗi trận thắng lớn của Hồng quân đều cho tôi một liều thuốc bổ vô giá.

 

Ở đây tôi có một bạn tù mới. Bên cạnh xà lim của tôi có đồng chí Lung, một anh thợ điện bị bắt mấy tuần trước. Mỗi lần được ra sân chơi, chúng tôi liền thảo luận về tình hình và “hâm nóng” lòng tin cho nhau ở chiến thắng cuối cùng của Liên Xô. Lúc nào cũng sôi nổi, Lung nói dứt khoát: Thế nào thằng Hít- le cũng chết!

 

Đêm đêm, khi đã khuya mà chưa ngủ được, tôi thường nghe một tiếng rao của một em bé gái: “Ai mua bánh bột lọc không?” Tiếng nó rao nhỏ yếu, nghe mà thương quá. Kể thì cũng bình thường, các cháu bé ngày đêm giúp mẹ đi bán dạo những bánh mì bánh ú… Một buổi sáng dậy, bỗng nghe anh Lung gọi sang tôi: “Này, tối qua, mi có nghe con nhỏ mô rao bán bánh không?” Tôi đáp: “Ừ, đêm nào cũng nghe nó rao ngoài tường nhà lao, như để hỏi mình có mua không, thật tội nghiệp!” Bỗng nghe tiếng Lung cười to mà như một tiếng nấc: “Con gái út của tao đó, mới tám tuổi mà đêm nào cũng phải mang bánh đi bán cho mẹ. Hắn biết tao ở trong này nên cố ý rao to cho tao nghe đó. Có đứt ruột không chớ!”. Tôi nghẹn cổ, ứa nước mắt, nhưng cũng cố gắng nói một lời: “Đời còn khổ lắm, Lung ơi, nên phải làm cách mạng chớ sao!” Thế là ngay hôm ấy, tôi lẩm nhẩm bài Một tiếng rao đêm:

 

Ai ăn bánh bột lọc không?

 

Tiếng rao sao mà ướt lạnh tê lòng!

 

….

 

Trên môi mỏng hãy thơm mùi sữa mẹ

 

Tiếng rao nhỏ của một em gái bé

 

Không vang lâu chỉ vừa đủ rao mời

 

Mà giọng còn non quá, yếu dần hơi

 

Nên cái bánh nửa chừng ra cái “bén”…

 

 

Anh nằm nghe, qua cửa khám xa xôi

 

Tiếng em bước trên đường đêm, nhỏ nhỏ

 

Nhưng cũng đủ cho lòng anh lắng rõ

Anh thấy em, mình gió thổi nghiêng nghiêng

 

Như cây dương liễu nhỏ, tóc chưa viền

 

Manh áo mỏng che em không kín ngực

 

Đầu không nón, bụi sương thầm chấm ướt

 

Đuôi tóc chuôi chừng bảy tám năm thôi

 

Ấy chân em leo lên bước đường đời

 

Ngày tháng đó, trong mủng vài chục bánh

 

Gia tài đó, mấy đồng xu mỏng mảnh

 

Biết bao giờ mà sướng được, em ơi!

 

Nhưng đời không chỉ là tiếng rao đêm ấy. Ngày nào, ở trong nhà lao Quy Nhơn tôi cũng nghe tiếng của nhà máy điện, tiếng chuông của nhà thờ và tiếng kẻng của lính gác, tưởng như cuộc đời chỉ còn Ba tiếng đó. Tiếng thì gọi phải lao động, tiếng thì như ru ngủ tinh thần, còn tiếng thì đe doạ mạng sống! Nghĩa trong đời ba tiếng, Máy điện giục gầm gừ, Chuông đạo hát vô tư, Kẻng tù khua gắt gỏng… (…). Chao ôi! Dưới ách thống trị của bọn đế quốc thực dân, bọn địa chủ, tư bản áp bức, bóc lột thì cuộc sống con người chỉ có thế thôi! Không thể “Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” được, nhà thơ Xuân Diệu của tôi ơi! Mà cũng không thể “ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua” được, anh Thế Lữ buồn đời ạ! Bởi vì:

 

Đời đắng cay không một chút ngọt bùi

 

Đời đau buồn không một tiếng cười vui

 

Đời đen tối, phải đi tìm ánh sáng

 

Cho nên:

 

Ta bước tới chỉ một đường cách mạng!

 

Vững lòng tin sẽ nắm chắc thành công

 

Như những con tàu, giữa biển mênh mông

Còn xa đất, vẫn tin ngày cập bến!

 

Cuộc chiến đấu sinh tử đang giục ta, từng ngày:

 

Không thể nữa lưng chừng hay tính toán

 

Trọn đời ta rút gọn ở giờ này

 

Bão đã rốc thổi già trên biển loạn

 

Sống là đây, mà chết cũng là đây!

 

….

 

Không thể nữa, cầu xin êm gió nước

 

Gió vô tri và nước cũng điên cuồng

 

Phật vẫn lặng như nghìn năm thuở trước

 

Và trời hay Thiên chúa cũng hư không!

 

Ở Quy Nhơn mới đó mà đã hết hạn sáu tháng tăng án. Lại có lệnh phải đi đày lên Daklay. Ừ, thì đi. Rồi sẽ tính. Chiếc xe tải chở tù lại đưa tôi đi qua thị xã, như lần trước :

 

Đường qua mấy phố Quy Nhơn

 

Nhà sao trông lại yêu hơn mọi lần..

Người đi, quấn áo chen chân

 

Ờ sao như đã quen thân từ nào!

 

Xe ơi, chầm chậm, ngừng giây phút

 

Kẻo nữa rồi đây lại khát khao!

 

Trên cái ghế dài lắc lư của xe tải, tôi lại ngâm mấy câu thơ của Tiếng hát đi đày nhưng tinh thần tôi không còn như chuyến đi trước, tôi đang tính kế thóat ngục đây.” (tr 60-65)

 

Như vậy, qua đoạn hồi ký trên, ta thấy, nhà thơ Tố Hữu đã đi qua và ở lại Quy Nhơn ít nhất hai lần. Ở trong tù, nhà thơ đã làm quen với một người dân Quy Nhơn là đồng chí Lung, một thợ điện cũng bị tù đày như nhà thơ. Điều đó nói lên tinh thần đấu tranh cách mạng của người dân Quy Nhơn lúc bấy giờ. Bài thơ Tiếng rao đêm được gợi hứng từ tiếng rao bán bánh của con gái anh Lung. Những tháng ngày ở trong xà lim Quy Nhơn, nhà thơ Tố Hữu thêm một lần nữa thể hiện sắc nét tình cảm nhân đạo cộng sản: Yêu thương quần chúng lao động, trui rèn ý chí cách mạng, quyết tìm đường giải phóng nhân dân, dân tộc ra khỏi cảnh áp bức, lầm than. Cuộc chiến đấu đó như đang giục bước chân nhà thơ. Và bây giờ chuyến đi đày lần này, sau khi ở Quy Nhơn, với nhà thơ đã “không còn như chuyến đi trước ”, nhà thơ lạc quan, tin tưởng ở tương lai thắng lợi của cách mạng: “tôi lại ngâm mấy câu thơ” và “tôi đang tính kế thoát ngục đây”. Tù đày, chết chóc với nhà thơ lúc này sao mà nhẹ như lông hồng. Có thể nói rằng, những ngày ở xà lim Quy Nhơn đã giúp nhà thơ thêm niềm tin yêu, khẳng định, củng cố thêm lí tưởng cách mạng đã có “từ ấy” ở nhà thơ trẻ Tố Hữu.

 

Cũng trong hồi ký của mình, nhà thơ còn kể thêm một câu chuyện có liên quan đến Quy Nhơn:

 

“Anh cả tôi cũng kể lại một câu chuyện khá cảm động. Chính trong thời gian tôi bị giam ở nhà lao Quy Nhơn hồi 1941, anh tôi đang làm việc ở sở Bưu điện. Khi tôi vượt trại giam tháng 3/1942, anh nhận được lúc nửa đêm bức điện khẩn và mật của địch phải truyền đi khắp nơi. Lẽ nào, anh lại truyền lệnh địch lùng bắt em? Thế là anh giả vờ ngủ quên, coi như không biết. Sáng hôm sau, viên chủ sở hỏi, anh tỏ vẻ ngơ ngác, liền bị mấy bạt tai và bắt phải điện đi ngay, suýt nữa bị tù. Chắc là tôi sẽ bị bắt lại, nên nhân khi Côn Đảo đang cần cán sự bưu điện, anh tôi liền xin ra đó làm việc, hòng có thể giúp em được chút nào nếu tôi bị đày ra đảo. Nhưng tôi đã thoát nạn, và anh tôi lại có cơ hội gần gũi nhiều cán bộ ta bị nhốt ở nhà đày, giúp một số việc, báo chí thuốc men, thư từ, nhất là liên lạc với đất liền” (tr 244-245).

 

Đấy là duyên nợ của nhà thơ cách mạng Tố Hữu cách đây hơn 60 năm với Quy Nhơn chúng ta !

 

~Nguồn: Trần Xuân Toàn [http://www.baobinhdinh.com.vn]~

Ra trận

…Các nhà văn: Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Văn Bổng, Phan Tứ, Nguyên Ngọc, là những người đầu tiên vào Nam tiếp sức cùng các nhà văn sẵn có trong đó: Giang Nam, Thanh Hải… Một số họa sĩ trẻ ở miền Bắc như Lê Lam, Thái Hà, cũng xung phong vào chia lửa cùng số họa sĩ: Huỳnh Phương Đông, Cổ Tấn Long Châu.

Họ là những người dám xông pha trên các chiến trường, ngày đêm lăn lộn với đồng bào, chịu đựng thiếu thốn, bom đạn ác liệt. Chị Dương Thị Xuân Quý đã dũng cảm hy sinh ở Quảng Nam trong một trận càn quét của địch. Những giáo viên, kỹ sư, bác sĩ, nhà văn và nghệ sĩ ấy trước khi đi đã chấp nhận khổ luyện, tập đeo đá đến 30 kilôgam, leo đồi dốc, trước khi lên đường, và hầu hết đều đi đến đích. Nhà văn Anh Đức vào tận Kiên Giang, viết được tác phẩm Hòn Đất có tiếng vang lớn, miêu tả rất cảm động cuộc chiến đấu của nhân dân ta ở mảnh đất hẻo lánh này.

Về tỉnh Cà Mau, anh lại viết thư trao đổi với nhà văn Nguyễn Tuân, thư đi thư lại của họ được tập hợp lại thành tập Bức thư Cà Mau đọc rất dễ vào lòng người, giúp ta hiểu được nỗi gian truân ác liệt và khí phách của quân dân vùng cực Nam của Tổ quốc. Nguyễn Văn Bổng dám xông xáo, vào sống ở Sài Gòn, viết được một số tác phẩm nói được lên cuộc sống và phong trào đấu tranh của đồng bào vùng tạm chiến.

Các họa sĩ Lê Lam, Thái Hà, Huỳnh Phương Đông đi đến đâu, đều vẽ tranh và triển lãm ở đó. Nhiều tranh ký họa bằng bút sắt, màu nước được gửi ra triển lãm ở Hà Nội, phản ảnh sinh động những trận đánh và những chiến sĩ, những bà mẹ miền Nam… Bác Hồ từng đến xem, rất khen ngợi những bức tranh chân thật và cảm động ấy. Các đội văn công gọn, nhẹ, phục vụ chiến sĩ, đồng bào đạt hiệu quả bất ngờ, đến nỗi có đại đội xin được mang tên Tô Lan Phương, một nữ ca sĩ nổi tiếng.

Những bài hát lúc đó của các nhạc sĩ Hoàng Việt, Xuân Hồng, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Tài Tuệ, Hoàng Hiệp, Nguyễn Văn Tý, Thuận Yến, Nguyễn Văn Thương… thật dễ vào lòng người, là công cụ làm công tác tư tưởng rất lợi hại. Phương Tây có câu nói “Khi đại bác gầm thì họa mi thôi hót”. Nhưng ở Việt Nam thì không phải thế, “Tiếng hát át tiếng bom”. Thật hào hùng. Các đội văn công thật sự là một binh chủng, có sức mạnh hàng trung đoàn. Kể cũng đặc biệt, hiếm có nơi nào như nước ta huy động được văn nghệ sĩ ra trận “dễ” như vậy. Đó là do lòng yêu nước và khí phách anh hùng, bản chất dân tộc và tài năng của họ.

Các đoàn làm phim ở miền Bắc đã quay nhiều phim thời sự, tài liệu rất chân thật. Và đã sáng tác một số phim truyện có giá trị, xúc động lòng người và có tiếng vang ra thế giới, như: Con chim vành khuyên, Chị Tư Hậu, Chung một dòng sông, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm… Sau này điều kiện thuận lợi hơn, ngay ở miền Nam có các tổ làm phim của Mai Lộc, Khương Mễ, Phạm Khắc, đặc biệt là Hồng Sến (tác giả bộ phim Cánh đồng hoang), một nghệ sĩ tài hoa. Những thước phim mặt trận đều do các anh quay, và đến nay vẫn là vô giá.

Năm 1963, đúng là tôi đã rút ruột để viết bài Miền Nam đó!

Nếu tâm sự cùng ta, bạn hỏi:

Tiếng nào trong muôn ngàn tiếng nói

Như nỗi niềm nhức nhối tim gan

Trong lòng ta, hai tiếng: miền Nam!

Có phải hỡi miền Nam anh dũng

Khi ta đứng lên cầm khẩu súng

Ta vì ta, ba chục triệu người

Cũng vì ba ngàn triệu trên đời!

Ôi, Tổ quốc giang sơn hùng vĩ

Đất anh hùng của thế kỷ hai mươi

Hãy kiêu hãnh: trên tuyến đầu chống Mỹ

Có miền Nam anh dũng tuyệt vời

Tháng 10 năm 1965, Bộ Chính trị phái tôi vào khu Bốn để góp sức với anh em. Tôi vào xin ý kiến Bác trước khi đi. Bác bảo ngay:

– Chú đã tính làm gì chưa?

Tôi thưa:

– Khu Bốn là một vùng nghèo đói, lại bị bom đạn thì tình thế rất khó khăn, các đảng bộ cũng chưa có nhiều kinh nghiệm. Trong cuộc chiến tranh phá hoại này, cháu nghĩ là có động viên được nhân dân hăng hái chiến đấu và sản xuất thì tình hình mới bền vững.

– Làm thế nào động viên được đồng bào? – Bác hỏi lại.

Tôi liền thưa:

– Dân mình thường nói: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Cho nên cần trước hết chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh…

Bác cười:

– Chú biết làm thế nào cho Đảng vững mạnh không?

– Dạ, phải giáo dục thật tốt các cán bộ, đảng viên.

– Ai giáo dục? – Bác hỏi lại.

Tôi cảm thấy lúng túng, nghĩ rằng chắc Bác có ý kiến lớn, bèn thưa:

– Xin Bác chỉ thị cho bọn cháu làm tốt.

Đến đây Bác nói ngay:

– Không nên hỏi Bác, mà nên hỏi dân mới đúng. Ai được dân tín nhiệm, khen giỏi cả hai mặt: sản xuất và chiến đấu, thì đó là đảng viên tốt, ai chưa được dân tin, thì cần giáo dục thêm. Những đồng chí được dân yêu mến, tin cậy nhất mới xứng đáng là người lãnh đạo của Đảng bộ. Trái lại, ai bị dân khinh ghét thì không thể lãnh đạo được, cần thay đổi ngay.

Nhiều chú bây giờ xa dân quá, những điều Bác vừa nói là kinh nghiệm xưa nay, nhưng không mấy chú thực hiện. Thậm chí, cứ để mãi trong Đảng những đảng viên hư hỏng, lười biếng, hèn nhát, bị dân oán giận, thì còn lãnh đạo được ai? Đó là ý kiến của Bác, chú có làm được không?

Bài học lớn về xây dựng Đảng, đơn giản thế mà bấy lâu nay, ta quên mất rồi. Đúng như Bác nói: Chỉ có dân mới biết được ai thật xứng đáng là cán bộ, đảng viên. Dân ta rất tốt, rất tinh, biết tin dân thì mới được dân tin.

Từ đáy lòng, tôi cảm ơn Bác đã dạy bảo và quyết tâm thực hiện kỳ được. Thế là vào Quảng Bình, tôi đưa ngay chỉ thị của Bác ra bàn. Mời các đồng chí tỉnh ủy, cả các đồng chí bí thư, thường vụ, xuống một số làng xã, làm ngay. Một tuần sau, anh em trở về tỉnh, báo cáo kết quả, thật bất ngờ. Chi bộ nào, kể cả bí thư, cũng được bà con thành thật nói rõ: ai giỏi, ai không giỏi về sản xuất và chiến đấu. Thậm chí có nơi, bí thư bỏ chạy trốn khi địch bắn phá, để mặc dân tự lo liệu, và cả làng đều hoang mang, lo sợ. Chi bộ liền họp ngay, cảnh cáo những đảng viên hèn nhát, bầu bí thư và chi ủy mới, gồm toàn những đồng chí được bà con khen ngợi nhất.

Sau này, mỗi khi nghe báo cáo về tình hình mất dân chủ trong Đảng và trong nhân dân, Bác thường bảo: “Các chú diễn giảng hai tiếng “dân chủ” sao mà rắc rối, dài dòng thế? Dân chủ thật ra có nghĩa là “Để cho dân được mở miệng”. Liệu có làm được, có dám làm thế không?

Tố Hữu (phải) trên đường vào chiến trường miền Nam.

Từ giữa năm 1965 đến 1968, tôi đã nhiều lần vào vùng “cán xoong” Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh, nơi liên tục ngày đêm bị máy bay Mỹ ném bom vô cùng ác liệt. Hầu hết tất cả các cây cầu đều bị phá hủy, nhiều trọng điểm giao thông suốt ngày đêm bom dội: Hố bom chồng lên hố bom. Mặc dù vậy, đêm đêm những đoàn quân và đoàn xe vẫn không ngừng tuôn ra mặt trận.

Các lực lượng công binh, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến đã dũng cảm bảo đảm giao thông với tinh thần “Sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm”. Thời ấy, trên những chặng đường tuyến lửa ác liệt, thường thấy leo lét những ngọn đèn của các o dân quân đứng gác và những ngọn đèn ở các nút, các trọng điểm giao thông. Bài hát Ngọn đèn đứng gác phổ thơ của Chính Hữu và bài thơ Lửa đèn của Phạm Tiến Duật đã khắc họa rất sinh động và sâu sắc những ngọn đèn ấy.

Một hôm ở Quảng Bình, tôi yêu cầu tỉnh ủy giới thiệu cho tôi một số người tiêu biểu của phong trào chiến đấu. Anh Thoan, Bí thư tỉnh ủy và anh Thành, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, vốn nắm vững cơ sở, liền đề nghị tôi gặp mẹ Suốt, một bà chèo đò rất dũng cảm, hàng ngày đưa bộ đội qua sông Nhật Lệ dưới bom đạn địch.

Trưa hôm ấy, tỉnh ủy mời bà mẹ đến cơ quan, ăn cơm với chúng tôi. Bà có vẻ ngơ ngác, không hiểu đến làm gì. Tôi cầm tay bà và nói: Mẹ Suốt ơi, mẹ già rồi sao còn làm cái việc chèo đò cho mệt? Bà nhìn tôi hồi lâu như không hiểu tôi muốn gì? Rồi nói rất tự nhiên: “Ủa, chú nói chi lạ rứa? Tui già thì chỉ có việc chèo đò cho bộ đội mà không được à?”. Tôi bật cười, ôm lấy vai mẹ: “Ô hay, bọn tui khen mẹ đó chớ! Mà sao ông cũng đồng ý cho mẹ chèo chống dưới bom đạn?”. Đến đây, mẹ Suốt cười rất vui: “Ông có việc ông, đi khơi đi lộng. Còn tui có việc của tui, việc ai nấy làm. Cả làng, cả tỉnh đánh Mỹ mà nhà tui chịu thua à?”. Thế là mẹ kể cho tôi nghe cả cuộc đời cực khổ từ bé, phải đi ở cho người ta, lấy chồng đẻ con cả “một lũ” rồi phải đi sông đi biển đánh cá tôm kiếm ăn… Từ ngày Mỹ ném bom, mẹ liền xung phong đi chèo đò cho bộ đội qua sông, cả ngày lẫn đêm…

Gan chi gan rứa, mẹ nờ!

Mẹ rằng: cứu nước, mình chờ chi ai?

Chẳng bằng con gái, con trai

Sáu mươi, còn một chút tài đò đưa…

Tàu bay hắn bắn sớm trưa

Thì tui cứ việc nắng mưa đưa đò!

Tôi nói vui với bà: “Mẹ giỏi thiệt đó, nhưng sao không để bọn con gái chèo có hơn không?”. Bà liền bốp ngay: “Chú nói nghe không được. Bọn con gái chèo giỏi hơn tui thiệt, nhưng bọn hắn còn biết bắn súng. Để nó chèo thì mình mất cây súng à? Chú không nghe bọn con gái ở cái làng Ngư Thủy, họ bắn cả súng lớn, chìm mấy chiếc tàu to của Mỹ sao?”. Ôi, một bà như mẹ Suốt gan góc, khôn ngoan như thế, mà sau khi được “tuyên dương Anh hùng”, vẫn không chịu buông tay chèo. Cho đến một hôm, mẹ đã ngã xuống, hy sinh ngay trên bến quê hương Bảo Ninh, để lại cho con cháu muôn đời một tấm gương yêu nước và dũng cảm phi thường!…

~Nguồn: Trích hồi ký của Tố Hữu~

Anh Tố Hữu mất ngày 9/12. Trước đó, tôi đã rất nhiều lần vào thăm anh ở bệnh viện. Biết tình trạng anh nguy kịch nhưng tin anh mất vẫn làm tôi bàng hoàng đau xót, vì anh và tôi có nhiều kỷ niệm chung, có nhiều tình cảm bạn bè, đồng chí sâu sắc.

Anh Tố Hữu và tôi cùng học trường Quốc học Huế. Tôi học trên hai lớp nhưng anh tham gia cách mạng sớm. Năm 1937, anh đã là Bí thư Đoàn TNCS của trường. Tháng 4/1937, Tố Hữu và Xuân Diệu lãnh đạo học sinh trường Quốc học đi đón Gô-đa, đại diện của Chính phủ Bình dân Pháp sang thăm Việt Nam. Đi đón Gô-đa lúc đó là một thái độ phản kháng chính quyền thực dân tại nước ta. Sau sự kiện này, chúng tôi suýt bị đuổi học, may có hội đồng giáo sư (cả người Pháp và người Việt) bênh vực nên chỉ bị cắt học bổng mà thôi. Mùa hè năm ấy, Tố Hữu bị mật thám Pháp truy lùng, anh em tìm cách giấu anh trong nhà thầy Lê Xuân Phương. Sau đó hai ngày, anh trốn đi chỗ khác. Học trò chúng tôi, ai cũng biết anh trốn trong nhà thầy Phương nhưng tuyệt đối giữ bí mật cho anh.

Cuối tháng 8/1945, có phái đoàn Chính phủ lâm thời gồm trưởng đoàn Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và tôi vào Huế nhận sự thoái vị của Bảo Đại. Trưa 29/8/1945, phái đoàn đến bến phà Mỹ Chánh ở Bắc Thừa Thiên thì anh Tố Hữu, với tư cách Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa (UBKN) Huế, ra đón đoàn. Gặp nhau trên phà, anh ôm tôi reo lên: “Huy Cận ơi, anh em ta lại gặp nhau rồi, mừng quá!”. Rồi anh nói với bà con đứng ở hai bên bờ sông: “Bà con ơi, đây là Chính phủ của ta, thật sự là của ta”. Về đến sân vận động Chợ Cống, thấy ông Phạm Khắc Hòe, Đổng lý Văn phòng của triều đình nhà Nguyễn, đang dò hỏi xem vị Chủ tịch UBKN là ai. Đến lúc nhân dân chỉ cho biết, ông Hòe vô cùng ngạc nhiên: “Không ngờ Chủ tịch UBKN là một người bạch diện thư sinh như thế!” Lúc Bảo Đại làm lễ thoái vị, đoàn chúng tôi đứng trên lầu Ngọ Môn, riêng anh Tố Hữu đứng dưới sân vận động. Vì sao lại thế? Anh giải thích: “Chủ tịch UBKN Huế phải đứng ở dưới để bảo vệ, nếu xảy ra chuyện gì lôi thôi còn ứng phó kịp thời, huy động quần chúng bảo vệ phái đoàn”.

Quê tôi ở Hà Tĩnh, một làng sơn cước nhưng tôi học ở Huế 10 năm, từ năm lớp 3 cho đến khi đậu tú tài toàn phần. Cho nên tôi nhận Huế là quê hương thứ hai. Còn anh Tố Hữu quê ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Chục năm nay, năm nào ở Hà Nội cũng họp hội đồng hương Huế và bao giờ tôi cũng được mời dự. Chủ tọa thường mời con nuôi lên phát biểu trước, sau đó mới đến con đẻ. Tôi học lâu ở Huế, rất mê Huế và con gái Huế. Một ân hận của đời tôi là không lấy được một người con gái Huế làm vợ. Có lần tôi tâm sự với anh điều ấy thì Tố Hữu cười nói: “Nếu bây giờ còn mê thì mình giới thiệu cho”. Rồi anh lại nói thêm: “Chính mình cũng không lấy con gái Huế mà lấy con gái Thanh”. Rồi hai anh em cười xòa.

Tôi và anh Tố Hữu cách đây vài năm định cùng làm một tuyển tập thơ, chọn 100 bài thơ hay nhất của Việt Nam từ thời lập quốc đến nay. Hai anh em đã định ra danh sách 100 tác giả từ thời Lý Trần cho đến sau này, nhưng chưa kịp chọn bài cụ thể nào thì anh đã phải nằm viện. Những lần vào thăm anh, tôi không nhắc đến việc làm tuyển tập này vì biết anh đã quá mệt. Nay anh ra đi, tôi không những bàng hoàng thương xót mà còn bâng khuâng. Rồi đây tôi phải một mình chọn những bài thơ, tất nhiên là có cả thơ của anh nữa. Tôi sẽ… gọi dây nói đường dài sang thế giới bên kia để trao đổi với anh.

~Nguồn: Người Lao Động~

 

Tôi có may mắn là, trong vòng chục năm trở lại đây, mỗi năm ít nhất cũng được gặp Tố Hữu, cây đại thụ của nền thi ca cách mạng Việt Nam 2 lần vào các kỳ họp Quốc hội. Kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa XI diễn ra vào cuối năm Nhâm Ngọ không thấy ông tới. Hỏi ra mới biết ông đang trọng bệnh và nằm viện dài ngày. Cuộc trò chuyện mà tôi ghi lại dưới đây diễn ra vào kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa X. Không ngờ rằng đấy lại là lần cuối cùng tôi được gặp Tố Hữu. Vào hồi 9 giờ 15 phút ngày 9/12/2002, Tố Hữu đã trút hơi thở cuối cùng. Xin ghi lại cuộc đối thoại này như một lời tiễn biệt…

Nhà thơ Tố Hữu.

Lại cũng vẫn như những kỳ họp Quốc hội trước, kỳ này ông lại tới. Vẫn với tư cách khách mời. Ông lặng lẽ đi vào hàng ghế dành cho khách mời, lặng lẽ ngồi nghe, lặng lẽ ghi chép. Giờ giải lao ông thơ thẩn thả bách bộ trong khuôn viên Hội trường Ba Đình, lúc nhận lời chào của người này, lúc gật đầu với người kia. Hết giờ giải lao, các đại biểu đã hết trong Hội trường. Hôm đó, trời Hà Nội se lạnh. Ông vẫn ung dung thả bách bộ. Ở phía trong kia, Hội trường Ba Đình, các đại biểu Quốc hội đang thảo luận về tình hình kinh tế – xã hội. Chưa bao giờ vấn đề đấu tranh chống tham nhũng lại được nói nhiều đến thế. Chưa bao giờ các đại biểu miền núi lại kêu gọi hãy “đừng bỏ rơi” đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao đến thế. Ông vào đến cửa Hội trường. Một đại biểu của tỉnh Tuyên Quang đang kết thúc bài phát biểu của mình bằng 4 câu thơ của ông “Mình về thành thị xa xôi/ Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa không?/ Phố đông còn nhớ bản làng / Sáng đèn còn nhớ ánh trăng giữa rừng.”

Ông dừng lại như để nghe cho rõ. Tôi chào ông. Ông cầm tay tôi chậm rãi bước xuống các bậc thang đi trở ra khuôn viên Hội trường. Vừa đi vừa nói: “Dân là gốc của nước. Nước là của mọi người dân, còn cách mạng thì như con thuyền mà dân trao cho Đảng làm người cầm lái. Con thuyền đi tới đích thắng lợi là nhờ sức dân”. Bác kính yêu của chúng ta đã từng dạy như vậy… Dân mà không có sức thì làm sao đẩy con thuyền cách mạng tới đích thắng lợi được”. Tôi còn nhớ hôm ấy ông nói rất nhiều về những điều Bác dạy. Ông kéo tôi ngồi xuống chiếc ghế đá. Một chiếc lá vàng bị làn gió lạnh cuốn tới đặt ngay cạnh ông ngồi. Ông cầm chiếc lá giơ lên và ngắm rất kỹ. Không hiểu lúc ấy ông nghĩ gì. Chẳng hiểu sao tôi lại hỏi ông một câu hết sức “giáo khoa”:

– Thưa ông, ông từng là một chính khách, rồi lại là một nhà thơ. Thực ra thì bây giờ ông thích con người chính khách hay con người nhà thơ trong ông?

– Ái chà chà, chi mà “chơi” nhau ghê rứa hề? – ông cười khà khà, rất to – Nói chơi vậy thôi chứ, thực ra thì tôi là Tố Hữu!

– Nhưng có một dạo ông đã từng tuyên bố: “Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ…”?

Ông lại cầm chiếc lá vàng giơ lên trước mắt, vừa chăm chú ngắm vừa nói:

– Đấy là một cách nói ấy mà…

– Nhưng mà cái thuở “Làm Bí thư hoài có bí thơ”?

Ông trao chiếc lá vàng vào tay tôi rồi cất giọng ngâm nga:

– Làm Bí thư đâu chuyện giấy tờ / Lắng nghe cuộc sống gọi từng giờ / Phải đâu tim cứng thành quân dấu? Càng thấu nhân tình đến vần thơ.

Phía bên trong Hội trường Ba Đình tiếng ông Ngô Đình Loan (đại biểu Bắc Ninh) đang sang sảng vang lên: “…Chúng ta đã nói hết cả ngôn từ rồi mà nạn tham nhũng vẫn không giảm…”. Các đại biểu Quốc hội đang thảo luận về chống tham nhũng.

– Vậy chống bằng cách nào? – Tôi hỏi ông.

Ông không nói gì, đưa bàn tay phải lên ngang cổ họng mình, làm bộ kéo đến xoẹt một cái. Rồi ông nhìn tôi nheo mắt, tặc lưỡi: Cứ phải thế!

– Ở cái thời ông còn làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tham nhũng có trầm trọng như vậy không?

– Trước đây, khi còn chiến tranh, từ trên xuống dưới, ai ai cũng lo đánh giặc. Đánh giặc xong rồi ai cũng lo bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới. Bây giờ là thời buổi kinh tế thị trường, phức tạp nhiều hơn…

Nói rồi ông trầm ngâm. Rồi ông trăn trở… Thấy ông có vẻ buồn, tôi chuyển sang đề tài khác:

– Nhiều người cứ tiếc rằng Tố Hữu ít làm thơ tình quá…

– Ở đời không nên dạy người khác phải yêu như thế nào. Tuy nhiên có thêm dăm bảy bài thơ tình nữa thì cũng tốt. Mà không có nữa thì đời cũng đã quá nhiều người làm thơ tình rồi. Đến như Xuân Diệu là tuyệt chiêu…

– Lại cũng có ý kiến cho rằng giá mà Tố Hữu chỉ theo một nghiệp thơ…

– Tôi cho rằng nói như vậy là ngộ nhận. Tôi đi làm cách mạng không phải là muốn hay không muốn, mà là cuộc đời vốn phải thế. Trong xã hội có người cầm cày, có người cầm búa, có người cầm súng, lại phải có người cầm bút chứ. Nếu người nào có khả năng gì thì nên sử dụng triệt để khả năng đó. Người ta nói: “Chính trị tức là nghệ thuật sử dụng khả năng”. Tôi làm chính trị tức là sử dụng khả năng làm thơ của mình để làm cách mạng.

“Có khổ đau nào đau khổ hơn / Trái tim tự xát muối cô đơn…”.

– Gần đây ông hay viết những câu thơ đại loại như vậy. Phải chăng ông đang cảm thấy cô đơn?

– Không! Không đâu, tôi không cô đơn. Ngay cả khi tôi nói tôi cô đơn thì đấy cũng chỉ là tiếng một con chim gọi bạn mà thôi. – Trầm ngâm một lúc, ông quay sang hỏi tôi,- Này, cậu có biết không, một con gà trống dậy sớm hơn những con khác, nó cất tiếng gáy. Ban đầu là tiếng gáy cô độc, sau đó có vài con gáy theo và cuối cùng là cả bầy gà cùng gáy. Đấy, cô độc mà có cô đơn đâu?

– Nhưng thực tình thì ông có sợ cảm giác cô đơn không?

– Trên đời này ngoài cái chết và cái đói ra, thì đau khổ nhất của con người là cô đơn. Cô đơn nghĩa là mình không có bạn. Cái đó đừng trách đời mà hãy tự trách mình. Đời đáng yêu lắm lắm. Đời luôn rộng mở cho tất cả mọi người đến với nhau. Chỉ vì anh quay lưng lại với đời nên anh mới cảm thấy cô đơn mà thôi. Nhưng mà “Sợ chi khúc khuỷu đường muôn dặm/ Ta vẫn là ta ta với ta”. Cái quan trọng nhất anh có luôn là anh hay không mà thôi. Tố Hữu luôn là Tố Hữu, với mọi người và với nhân dân.

– Tại sao gần đây ông hay nhắc tới hai tiếng NHÂN DÂN?

– Thế tôi hỏi cậu nhân dân đã thực sự sung sướng chưa?

– Có thể chưa phải là lúc để tổng kết cuộc đời mình, nhưng nếu nhìn lại quãng đời đã qua thì có điều gì “đáng ra phải quên đi” mà ông lại cứ nhớ, còn những điều gì “ đáng ra phải nhớ” mà ông lại quên không?

– Thực ra thì tôi nhớ cả những điều đáng ra phải quên đi và không bao giờ quên những điều đáng nhớ.

– Trong những điều “đáng ra phải quên đi” ấy thì có điều gì mà cho ông làm lại từ đầu ông sẽ làm khác đi không?

– Nhiều, nhiều chứ! Ví dụ, trước đây tôi không tài nào chịu nổi 2 câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Gió lùa gian gác xép/ Đời tàn trong ngõ hẹp”, mặc dù 2 câu thơ này rất hay. Hay lắm!. Đáng ra lúc ấy mình phải hiểu, phải thông cảm. Đấy là nỗi đau của một tâm hồn bế tắc. Đáng ra mình phải thương họ, phải hướng dẫn họ cùng tham gia cách mạng với mình để khỏi “Đời tàn trong ngõ hẹp”.

– Trong núi thơ ca đồ sộ của mình nếu phải chọn chỉ một câu thôi thì ông sẽ chọn câu nào?

– Nói như người ta hay nói: “Câu hay nhất là câu tôi chưa viết”, còn trong những câu tôi đã viết rồi thì có lẽ tôi chọn “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim”. Chả hiểu sao lúc ấy mới 17-18 tuổi mà mình lại viết được những câu như thế.

Nói rồi ông trầm ngâm. Dường như ông đang nhớ về thời trai trẻ tung hoành ngang dọc của mình, cái thuở mà “Hồn tôi là một vườn hoa lá/ Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

– Trước đây, năm nào cũng vậy, mỗi khi mùa xuân tới Tố Hữu đều có một bài thơ. Liệu tết năm nay những người yêu thơ có còn được thưởng thức thơ Tố Hữu nữa không?

– Thơ là cảm hứng. Cảm hứng lên thì ghi lại. Mùa xuân là bắt đầu một thời kỳ mới, vì vậy cảm hứng thường xuất hiện. Hy vọng là cảm hứng sẽ xuất hiện trong tôi.

Ông nói, rồi chậm trãi đứng lên, lững thững đi vào Hội trường Ba Đình. Tôi không đi theo ông, nhưng tôi hình dung rất rõ: ông vén tấm màn nhung đỏ che cửa, bước trên tấm thảm đỏ vào Hội trường, đi lại hàng ghế dành cho khách mời, lặng lẽ ngồi nghe, lặng lẽ ghi chép…

~Nguồn: Lê Thọ Bình (Theo PL TP.HCM)~

 

Nhà thơ Tố Hữu và bà Nguyễn Thị Thanh

Vào những năm bảy mươi của cuộc đời, nhà thơ Tố Hữu lấy bút danh Thương Hoa, đã viết về người bạn đời của mình: “Người ta vẫn nói, phía sau người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ tốt. Ở tuổi 74, bà bình dị như bao người phụ nữ. Có khác chăng bà làm bạn với một nhà thơ, một nhà chính trị từ buổi “Mặt trời chân lý chói qua tim”… Bài báo ấy chưa kịp đăng.

Tháng Bảy mưa ngâu

Đã có một lần, tiếng guốc đi qua cuộc đời nhà thơ khi ông 16 tuổi. Nhưng tiếng guốc không dừng lại. Một cô gái xinh đẹp, mảnh mai đã yêu ông. Nhưng cô không chịu được cuộc chia ly khắc nghiệt. Hai tháng sau khi nhà thơ bị bắt giam trong nhà lao Thừa Phủ, cô gái đi lấy chồng… Ngày tháng trôi, sau khi vượt ngục, anh Tố Hữu say sưa hoạt động cách mạng. Rồi một hôm, anh bất ngờ bị chị Thái, Tỉnh ủy viên Thanh Hóa hỏi:

– Đến tuổi lấy vợ rồi, sao không lấy vợ đi?

Lúc này, anh đang làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Huế. Anh Tố Hữu ngẩn người rồi cười:

– Chị xem có cô nào, giới thiệu giùm.

– Giá anh ra được Thanh Hóa thì hay quá. Ngoài ấy có mấy cô chưa chồng. Tôi thấy cô Thanh, nữ sinh Đồng Khánh Huế hợp với anh hơn cả. Cô ấy vừa xinh, vừa ngoan, lại rất say sưa hoạt động cách mạng.

Anh Tố Hữu tò mò muốn gặp Thanh. Khu nội trú Trường Đồng Khánh, Huế, cách nhà lao Thừa Phủ một con đường nhỏ. Ngày bị địch bắt giam, anh Tố Hữu vẫn thường nhìn sang khu nội trú, một thế giới tự do ríu rít các cô áo dài dịu dàng, xinh đẹp. Khát khao tự do của người tù với tâm hồn lãng mạn của nhà thơ đã làm anh Tố Hữu nhớ mãi các cô nữ sinh Đồng Khánh. Anh nhận lời với chị Thái: “Khi nào có dịp ra Thanh Hóa, các chị giúp tôi với nhé!”.

Câu chuyện tưởng như chuyện vui bị quên đi trong nhịp độ gấp gáp, khẩn trương của những ngày đầu khởi nghĩa. Sau ngày toàn quốc kháng chiến (tháng 12/1946), anh Tố Hữu được cử làm chủ nhiệm lớp Việt Minh, Thanh Hóa. Anh phụ trách lớp học chính trị đào tạo cán bộ ở thị xã. Có một nữ sinh xinh xắn, dễ thương, ngày nào cũng ngồi bàn đầu say sưa nghe giảng. Khuôn mặt tròn trĩnh, nước da trắng hồng với cặp mắt nâu ướt làm thầy giáo trẻ nhiều khi lúng túng phải nhìn đi chỗ khác. Đấy chính là cô Thanh ngày nào chị Thái định giới thiệu cho anh.

Thanh được giác ngộ cách mạng một cách tình cờ. Giữa năm 1945, tốt nghiệp Thành chung Trường Đồng Khánh, chị về quê chuẩn bị thi vào Quốc học Huế, học tiếp Tú tài. Chị là học sinh giỏi của Trường Đồng Khánh, luôn nhận được học bổng toàn phần. Ham học, tuy biết thi vào Quốc học Huế khó, chị vẫn quyết tâm thi. Nhưng sau đó, Thanh quyết định ở lại Thanh Hóa tham gia phong trào Việt Minh. Chị được kết nạp Đảng và trở thành bí thư chi bộ. Chị được cử đi học lớp bồi dưỡng chính trị do anh Tố Hữu dạy.

Trước khi học lớp chính trị, Thanh đã nghe nói nhiều về thầy giáo trẻ Tố Hữu. Anh Tố Hữu nổi tiếng ở Trường Quốc học Huế. Anh tham gia phong trào cách mạng của học sinh và bị chính quyền Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế), Lao Bảo (Quảng Trị) và ở ngục Kon Tum. Anh đã vượt ngục. Cô nữ sinh Đồng Khánh thầm mơ ước được gặp người lãnh đạo Việt Minh dũng cảm và là nhà thơ tài giỏi.

Thầy giáo trẻ tuổi, đẹp trai, lại có tài hùng biện làm Thanh rất thích nghe giảng. Dáng người nhỏ nhắn, giọng Huế dịu dàng, anh Tố Hữu đã làm xiêu lòng cô gái. Thanh chỉ bực mình vì nhiều lần giơ tay xin phát biểu mà thầy không gọi. Hình như thầy không để ý đến cô học sinh còn quá trẻ. Tự ái, Thanh hay rủ Hạnh (con gái Giáo sư Đặng Thai Mai) học cùng, xuống bàn cuối lớp đánh cờ carô.

Kết thúc lớp học, Thanh công tác ở Ban Phụ vận tỉnh Thanh Hóa. Chị hay gặp lại “thầy giáo” trẻ trong các cuộc họp. Thỉnh thoảng, chị bắt gặp anh Tố Hữu nhìn trộm mình. Bị “phát hiện”, nhà thơ lúng túng nhìn đi chỗ khác. Sau đó, Thanh làm Huyện ủy viên huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, quê chị. Mỗi khi về huyện Hoằng Hóa kiểm tra, anh Tố Hữu thường mời chị huyện ủy viên sang nói chuyện. Anh say sưa nói, chị say sưa nghe. Chuyện công tác, chuyện văn học… Hai người nói chuyện rất hợp, quên cả thời gian. Lâu lâu anh không về, chị thấy nhớ giọng nói ấm áp, ánh mắt dịu dàng…

Một hôm, chị Hào, cán bộ phụ nữ, gọi Thanh lên hỏi nhỏ:

– Em đã có ai chưa?

Thanh đỏ mặt, chưa biết trả lời thế nào, chị Hào nói:

– Anh Tố Hữu ưng Thanh đấy. Ý em thế nào?

Tuy không quá bất ngờ, Thanh vẫn thấy khó trả lời. Thực ra, chị đã thầm yêu anh từ những bài thơ cách mạng. Chị nhớ mãi bài thơ Ly rượu thọ anh Tố Hữu ngâm trong buổi văn nghệ cứu đói cách đây một năm. Giọng ngâm thơ đằm thắm, tha thiết làm chị xúc động. Thanh rất muốn nói “đồng ý” với chị Hào nhưng lại e ngại “nhà thơ được nhiều cô gái để ý quá”. Thanh nghe các chị trong Ban Phụ vận kể, có chị cán bộ đang yêu tha thiết nhà thơ. Chị không muốn làm người thứ ba. Thanh lúng túng trả lời:

– Chị cho em suy nghĩ mấy hôm.

Mấy hôm sau, chị Hào lại gọi Thanh lên:

– Em đã suy nghĩ xong chưa?

Thanh bẽn lẽn gật đầu. Sau khi hỏi lại, Thanh biết mối tình của chị cán bộ kia chỉ đơn phương. Anh Tố Hữu vẫn chưa yêu ai.

Sáng hôm sau, anh Tố Hữu gặp Thanh trong một ngôi nhà đã bị phá theo lệnh tiêu thổ kháng chiến. Anh đỏ mặt, ngập ngừng:

– Tôi đã nghe nói nhiều về Thanh trước khi gặp. Về đây, được gặp và làm việc với Thanh nhiều… Tôi ưng Thanh. Ý Thanh thế nào?

Thanh bối rối cúi đầu im lặng! Anh Tố Hữu nắm tay chị… Chị để yên, không rút tay lại.

– Ai cũng bảo tôi với Thanh đẹp đôi đấy. Em có đồng ý không?

Thanh thấy má mình nóng bừng. Chị lí nhí:

– Anh liều thật, lỡ Thanh không đồng ý thì sao?

Rồi Thanh lấy hết can đảm nói một mạch:

– Đứng trên lập trường Mácxít, anh phải nói thật anh đã có ai chưa?

Anh Tố Hữu thật thà thanh minh:

– Anh có ai đâu. Sao em lại không tin?

Thanh không giấu tình cảm của mình với nhà thơ nữa. Những ngày tiếp sau thật hạnh phúc. Cuối tuần, chị hồi hộp chờ tiếng chuông xe đạp của anh. Có lần, vừa gặp chị, anh vội khoe:

– Anh qua cầu Hàm Rồng, vừa đi vừa huýt sáo, suýt rơi xuống hào giao thông chữ chi.

Nhận tin phải lên Việt Bắc công tác, anh Tố Hữu bàn với Thanh:

– Ta tính ngày cưới đi em.

Thanh lo lắng:

– Sao cưới sớm thế anh? Em phải bỏ công tác ngay à?

– Anh sắp phải lên Việt Bắc xa lắm. Anh sợ phải xa em. “Kháng chiến trường kỳ” biết lúc nào gặp lại nhau. Anh muốn em cùng lên Việt Bắc với anh. Anh sẽ về gặp các anh huyện ủy để bàn chuyển cho em lên đấy công tác. Anh sẽ nhờ người đến xin cưới với bố mẹ em.

Nghe Thanh rụt rè xin phép lấy chồng, mẹ chị sửng sốt. Lâu nay chị vẫn giấu mẹ. Bà hỏi tỉ mỉ về anh Tố Hữu. Bà bảo chị:

– Mẹ lo cho con lấy chồng xa, anh ấy lại bận việc đi suốt, mẹ sợ con vất vả.

Mẹ chị đã để ý cho chị một anh cán bộ huyện cùng quê. Bà quan niệm: “Có con mà gả chồng gần. Có bát canh cần nó cũng đem cho. Có con mà gả chồng xa. Trước là mất giỗ sau là mất con”. Bà thấy Việt Minh cũng có vẻ hay hay nhưng cách mạng thế nào thì bà không biết. Bao nhiêu người giàu có đến hỏi, Thanh lại không ưng, trong khi cái anh Lành ở đâu đâu, biết thế nào mà gả con. Cưới xong hai đứa lại đem nhau đi luôn. Bà không đồng ý và đắp chiếu tuyệt thực. Thanh phải nhờ chị Nghiên là người có uy tín trong họ, cùng hoạt động cách mạng, đến thuyết phục mãi bà mới đồng ý.

Lễ cưới được tổ chức vào đầu tháng 8/1947. Đúng tháng mưa ngâu, trời mưa tầm tã. Anh Tố Hữu đạp xe từ thị xã Thanh Hóa về Hoằng Hóa. Từ sáng sớm, lễ cưới đã được chuẩn bị trang trọng. Chủ tịch Ủy ban xã, các chị ở Hội phụ nữ đều đến dự. Nhưng sắp đến giờ cưới, vẫn chưa thấy chú rể đến. Từ thị xã về Hoằng Hóa có xa lắm đâu. Thanh lo lắng. Anh Tố Hữu bao giờ cũng đúng hẹn. Mãi đến trưa, mọi người ngạc nhiên thấy chú rể và người đàn ông nữa lấm bùn bê bết từ đầu đến chân đang gột rửa quần áo ở ngoài bờ ao. Thì ra, anh Tố Hữu đã lặng lẽ đạp xe gần 60 cây số, đến nhà ông Đinh Quang Trường, một cơ sở cách mạng cũ của anh, nhờ ông làm đại diện họ nhà trai. Kỷ niệm ngày cưới Thanh còn nhớ mãi chiếc áo dài màu xanh lá cây chị Nghiên tặng.

Sau lễ cưới, mọi người về hết, cô dâu, chú rể đang ngượng ngùng nhìn nhau thì cô em gái Thanh hớt hải chạy vào nhà:

– Mẹ bảo chị vào buồng trong ngủ với mẹ.

Đêm tân hôn, đôi vợ chồng trẻ bị mẹ Thanh bắt ngủ riêng. Cô dâu ngủ với mẹ, chú rể ngủ một mình trên chiếc trường kỷ.

Sáng hôm sau ngày cưới, anh Tố Hữu đèo Thanh về cơ quan tỉnh Thanh Hóa. Chiếc ba lô nặng trĩu trên vai Thanh. Ngoài quần áo, trong đó còn có một cái hộp bằng gỗ đựng mấy thứ đồ chơi của Thanh, những kỷ niệm tuổi thơ; mấy con búp bê nhựa, mấy cuộn chỉ màu… Thị xã Thanh Hóa đang chuẩn bị kháng chiến chống Pháp. Nhà cửa bị phá gần hết. Chị cấp dưỡng của cơ quan tìm mãi mới bố trí được cho hai vợ chồng trẻ một “phòng hạnh phúc” trong cái nhà kho.

Bạn đời, bạn thơ

Trong An toàn khu, Trung ương Đảng và Trung ương Hội Phụ nữ ở cách nhau mấy chục cây số. Hai vợ chồng công tác hai nơi. Anh làm công tác văn hóa ở Trung ương Đảng, chị làm công tác phụ nữ. Thỉnh thoảng họ mới được gặp nhau. Có hôm trời mưa rét, đường trơn, Thanh vẫn đến thăm anh như đã hẹn. Tuổi trẻ, chưa có kinh nghiệm, lại trèo đèo lội suối nhiều, Thanh bị sẩy mất đứa con đầu. Một lần, tiễn chị đi công tác, anh viết thơ tặng chị:

Mưa rơi dầm lá cọ

Mái tóc em ướt rồi

Đôi má em bừng đỏ

Muốn hôn quá… mà thôi.

Sợ mình em xấu hổ

Cầm hai bàn tay nhỏ

Xa nhau chẳng muốn rời.

…Ước gì anh hóa thành chim

Bay theo em, hót cho tim đỡ buồn.

Sau khi vào bộ đội một thời gian, mùa đông 1949, anh Tố Hữu bị ốm nặng. Thanh về ở hẳn Ban Tuyên huấn Trung ương chăm sóc anh. Dân trong vùng kiêng không cho vợ chồng ở chung trong nhà mình. Anh em văn nghệ sĩ giúp hai người che phên liếp xung quanh một cái chuồng bò dựng tạm, người ta chưa kịp mua bò. Cái chuồng bò trở thành tổ ấm của anh chị. Trời lạnh giá, gió lùa qua phên liếp.

Tối đến, Thanh hà hơi vào chỗ nằm trước khi anh ngả lưng. Chị rúc vào người anh, dùng hơi ấm của mình sưởi ấm cho anh. Bốn tháng sau, anh Tố Hữu bình phục. Anh chị lại bịn rịn chia tay. Anh lại về cơ quan Tuyên huấn. Thanh về Phú Thọ công tác. Chị cảm thấy trống trải. Đêm, chị chong đèn, ghi nhật ký: “Năm tháng hạnh phúc êm đềm. Năm tháng săn sóc anh chu đáo. Hôm nay bắt đầu đi nhận công tác. Tôi vẫn không sao xua đuổi được những ý nghĩ buồn thương. Bây giờ anh đang làm gì? Anh đang yếu. Anh ăn cơm cùng cơ quan có được không. Không khí gia đình đang ấm áp, bây giờ anh một mình một bóng. Mong ngóng, khắc khoải. Hôm nay tôi ra về, trời lại mưa to. Trời khóc hộ em. Về cơ quan, mắt để vào trang viết nhưng lòng để tận đâu”.

Mỗi tháng một lần, anh Tố Hữu từ Thái Nguyên về Phú Thọ thăm vợ. Đi bộ một ngày đường, chỉ để gặp nhau một đêm, hôm sau chia tay sớm. Không có chỗ ở, anh chị làm một cái chòi trên đồi bằng cây sim và lá cọ. Cái phòng hạnh phúc có một không hai. Trong thời gian này, anh Tố Hữu làm bài thơ “Sợ”:

Đêm lạnh lều rơm không liếp cửa

Hai đứa mình ôm nhau trên sàn nứa

Nằm bên em nghe má ấm trong tay

Sợ tiếng gà gáy sáng hết đêm nay.

Một hôm, anh Bình cùng công tác với Thanh, hớt hải chạy đến gọi:

– Chị ơi, anh Tố Hữu bị trúng đạn máy bay rồi.

Thanh tất tưởi vừa khóc vừa chạy dọc bìa rừng. Gặp anh Nguyễn Đình Thi, Thanh mới biết anh Bình nhầm. Người chẳng may bị máy bay bắn là nhà thơ Thôi Hữu.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, anh Tố Hữu về tiếp quản Thủ đô trước chị Thanh một năm. Anh viết bài thơ Việt Bắc trong thời gian xa cách. Anh gửi gắm nỗi nhớ vợ của mình trong sự lưu luyến chung của mọi người khi chia tay với căn cứ địa Việt Bắc. Nỗi niềm riêng chung ấy đã làm nên tác phẩm Việt Bắc với những câu thơ tình tuyệt đẹp:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Anh viết thư cho chị:

“Ngày 27 tháng 10 năm 1954

Bé yêu!

Hôm qua anh được thư bé, tự nhiên anh vui cả ngày, vui hơn cả mọi ngày. Trên đường về Hà Nội, anh nhớ đến công việc và chập chờn từng lúc nhớ đến bé của anh, như anh nhớ đến Việt Bắc của chúng ta vậy. Anh làm bài thơ Việt Bắc hình như nói với cả em của anh đang ở lại. Tự nhiên trong lòng, tình chung và tình riêng lẫn lộn, hòa làm một. Và tình cảm ấy thấy nó tha thiết hơn nhiều. Chưa bao giờ anh yêu em, yêu cuộc đời của chúng ta thiết tha như vậy trong thơ của anh”.

Những lúc xa nhau, anh rất chăm viết thư. Anh gọi chị là “bé” như hồi mới yêu nhau: “Anh lo cho bé lắm, nằm queo một mình, nghĩ lung tung thì hư lắm. Mà bé không đủ ấm, chỉ có cái chăn với cái áo mỏng thôi. Áo bông, áo len bé để ở nhà cho út hết, thế có hư không?”.

Hòa bình, anh chị mới được sống bên nhau. Hạnh phúc nhưng anh chị vẫn cảm thấy không trọn vẹn vì mái ấm thiếu tiếng cười con trẻ. Thanh rất buồn, nhất là khi anh Tố Hữu thủ thỉ:

– Ước gì có tiếng giày lộp cộp của trẻ nhỏ.

Sau 9 năm làm đám cưới, chị có mang. Thanh mừng ứa nước mắt. Năm 1956, chị sinh con đầu lòng. Bác Hồ gửi tặng một tấm lụa chúc mừng anh chị. Anh Tố Hữu vui lắm, ngắm con không chán mắt. Thanh may đôi giày vải đỏ, đôi áo phin nõn cho con, anh Tố Hữu giữ mãi đến sau này. Sau đó chị sinh thêm 2 con nữa. Không khí gia đình càng êm ấm, vui vẻ. Khi phải đi công tác xa, viết thư về, bao giờ anh cũng dành cho các con hàng trang giấy. Anh viết rất trìu mến: “Hoa ơi, con khỏe không. Con nói thêm mấy tiếng? Con ăn có nhiều không? Đêm còn nhè bà ngoại nữa không? Con biết thêm mấy chuyện bà kể nữa? Ba về Mạc Tư Khoa sẽ mua cho con một con búp bê thật đẹp nhé. Cu Phương lật được chưa? Ba về chắc con ngồi được rồi đấy. Bé đã cho con ăn cháo được chưa nhỉ. Ba sẽ mua cho Phương một bộ áo quần mũ và giày với một bộ đồ chơi thú lắm”.

Mọi người hay trêu Thanh:

– Nhà thơ chắc có nhiều “nàng thơ” lắm.

Thanh chỉ cười, chị tôn trọng thế giới riêng của chồng. Chị rất tin anh. Thanh nghĩ: “Anh ấy nghệ sĩ mà. Thỉnh thoảng mình cũng thấy buồn buồn khi anh ấy ngắm nhìn lâu một ai đấy. Nhưng mà nghĩ lại, mình còn thích ngắm người đẹp nữa là các anh”.

Trong suốt thời gian chung sống, anh Tố Hữu luôn giữ gìn, tránh những chuyện có thể làm chị buồn. Anh Tố Hữu thích chia sẻ với Thanh những cảm hứng sáng tác. Nhiều đêm, đang ngủ say, Thanh bị đánh thức dậy:

– Anh vừa nghĩ ra tứ thơ mới. Nghe thử nhé.

Thanh là độc giả đầu tiên của những bài thơ. Có khi chị còn gợi ý tưởng, từ ngữ cho anh. Kỷ niệm đáng nhớ nhất là anh viết bài Bác ơi sau khi Bác qua đời. Anh ngồi một mình trong phòng, vừa viết vừa đưa khăn thấm nước mắt. Thanh lặng lẽ thức đêm cùng anh. Mấy tháng sau, anh bị ốm nặng. Bác sĩ chẩn đoán anh bị bệnh máu trắng. Nghĩ bệnh mình không chữa khỏi, anh quyết định phải làm một việc gì đó có ý nghĩa trong những ngày cuối cuộc đời. Một tháng sau, anh viết xong bài thơ Theo chân Bác. Viết xong, anh mệt quá, Thanh giúp anh chép lại bài thơ ấy. Thật lạ, sau đó, anh hồi phục dần và khỏi hẳn. Anh nói vui: “Có lẽ Cụ phù hộ mình”.

Vì bận công tác, anh ít có dịp tặng riêng vợ nhưng giữa dòng thơ cách mạng, anh dành cho chị những câu thơ tình rất hay:

… Trái tim anh đó

Rất chân thật, chia ba phần tươi đỏ

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ và phần để em yêu.

Cho đến khi hai người tóc đã bạc, ở tuổi bảy mươi, anh mới dành được nhiều thời gian hơn bên vợ. Những vần thơ tặng vợ thật đằm thắm, sôi nổi:

Lạ chưa, vẫn ở bên em

Mà anh cứ nhớ, cứ thèm gần em…

Năm nào anh Tố Hữu cũng tự mình chuẩn bị ngày sinh nhật cho Thanh. Năm 1969, anh viết tặng chị bốn câu thơ:

Ngày em sinh Cách mạng tháng Mười

Em cho anh, nước Nga cho đời

Nguồn vui lớn với niềm vui nhỏ

Anh tặng em hai đóa hồng tươi.

Những ngày cuối đời, nằm trên gường bệnh, anh Tố Hữu vẫn nhớ ngày sinh nhật chị. Sau một thời gian dài bị hôn mê, tự nhiên, đến ngày sinh nhật Thanh, anh chợt tỉnh lại trong chốc lát. Anh mỉm cười và cố hết sức nắm bàn tay chị. Cho đến khi anh mất, bông hồng đỏ chưa kịp tặng chị vẫn nằm giữa hai bàn tay nắm hờ của anh.

~Nguồn: Công An Nhân Dân~

Vì sao ông lại lấy bút danh là Tố Hữu? Giải thích điều này, ông kể rằng, giữa năm 1938 sang Lào thăm người anh. Ở đây ông gặp cụ đồ nho người Quảng Bình. Chính cụ đã đặt bút danh cho nhà thơ là Tố Hữu. Cụ đã lý giải bút danh bằng việc dẫn ra một câu chuyện ở bên nước Trung Hoa. Chuyện rằng, một hôm Khổng Tử gặp Hạng Thác, một chú bé đang đứng giữa đường. Khổng Tử muốn thử xem chú có thông minh không, liền hỏi: “Này, cháu có biết trên trời có mấy ngôi sao không?”. Hạng Thác ngước lên nhìn Khổng Tử, hỏi lại: “Thưa ngài, ngài có biết trên mắt ngài có bao nhiêu cái lông mày không? “Khổng Tử ngớ ra và kinh hãi vì tài ứng đối của chú bé. Lát sau, Khổng Tử khẽ kêu lên: “Ngô nhi tố hữu đại chí”. Tố Hữu nghĩa là sẵn có, ý chỉ khí phách tiềm ẩn trong người. Nghe cụ Nho giảng giải vậy, nhà thơ suy ngẫm một lát rồi tỏ ý không nhận nghĩa sẵn có mà chỉ muốn chấp thuận Tố Hữu ở nghĩa “người bạn trong trắng” (tố: trong trắng; hữu: bạn). Cụ già khen hay.Từ đó, nhà thơ lấy bút danh Tố Hữu với nghĩa mà mình đưa ra.

~Nguồn: Văn Mộc (Theo Tố Hữu – thơ và đời)~

Tố Hữu được tôn vinh với nhiều danh hiệu xứng đáng: nhà cách mạng lão thành, nhà hoạt động chính trị xuất sắc, nhà thơ cách mạng lớn nhất của đất nước ở thế kỷ 20, nhà thơ lớn của dân tộc, nhà thơ lớn của thời đại.

Vào dịp lễ tưởng niệm 100 ngày mất của Tố Hữu, cuốn Tố Hữu sống mãi trong lòng nhân dân và đất nước (1) được ra mắt bạn đọc cả nước. Tiếp đó, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia biên soạn và cho xuất bản cuốn sách dày dặn 768 trang Tố Hữu – người cộng sản kiên trung, nhà văn hóa tài năng. Sẽ còn biết bao trang viết nữa trong ngày hôm nay và mai sau về sự nghiệp hoạt động cách mạng và sự nghiệp thơ văn của Tố Hữu.

Với tư cách một bạn đọc văn chương, một thầy giáo dạy văn, tôi rất tâm đắc với vinh danh cao quý này: Tố Hữu – người học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Võ Nguyên Giáp – Mãi mãi nhớ anh Tố Hữu) (2). Bởi trong người học trò ấy có bóng dáng của người thầy vĩ đại. Nói cách khác, qua người học trò ta thấy được ánh sáng của người thầy hiền minh, siêu việt. “Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn”.

Là một trong những nhà thơ – nghệ sĩ được gần Bác nhất trong gần suốt cuộc đời hoạt động cách mạng và hoạt động văn nghệ, Tố Hữu đã ngày càng tiếp cận đối tượng thẩm mỹ kỳ vĩ, đã tự nâng mình lên mãi. Và như vậy cũng là quá trình tự thanh lọc để có thể viết được những câu thơ hết sức hiện thực mà “bay bổng diệu kỳ”: “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta. Ta bỗng lớn ở bên Người một chút…”. Tố Hữu cũng là một trong những người học trò tiếp thụ một cách xuất sắc tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh để biến hóa tinh anh Hồ Chí Minh thành hồn thơ cùng với cốt cách tinh thần của bản thân mình:

Lẽ sống, niềm tin, mong ước lớn

Và tình thương, ơn nghĩa bao la

(Theo chân Bác)

Những nhà nghiên cứu văn học, những nhà thơ khi muốn khai thác sâu xa vào một phẩm chất cao đẹp nào đấy thường nhấn mạnh, đặc tả chân dung. Tô Hoài coi Tố Hữu xứng đáng là “Ngôi sao sáng nhất trong bầu trời thơ ca cách mạng Việt Nam thế kỷ 20”. Với Nguyễn Ðăng Mạnh thì Tố Hữu được mệnh danh là “Nhà thơ của lẽ sống cách mạng”, “Nhà thơ của Tổ quốc Việt Nam”, là “Hồn thơ dân tộc” (Nhà thơ Việt Nam hiện đại. Chân dung và phong cách – Văn học, Hà Nội, 2003).

Dưới góc độ của lý tưởng cách mạng, tôi muốn tôn vinh Tố Hữu như nhà văn hóa, nhà tư tưởng lớn và suy nghĩ sâu xa về nhà thơ – chiến sĩ với cái tâm, cái trí lớn lao.

Hiển nhiên, Tố Hữu trước hết đã là một chiến sĩ cách mạng kiên cường đầy dũng khí. Ông đã phấn đấu suốt đời, trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng cao đẹp đã lựa chọn.

Con người ấy từ tuổi thanh niên đã “quăng thân vào gió bụi” của cuộc đời chiến đấu đầy gian lao, hiểm nguy, đã chịu tù đày, đã giáp mặt với cái chết. Người thanh niên cộng sản dần càng thấu hiểu thế nào là trường tranh đấu.

Ðời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là phải chịu tù đày

Là gươm kề tận cổ, súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn một nửa

(Trăng trối)

Từ ấy là tiếng hát chiến đấu của người thanh niên cộng sản, là “bó hoa lửa” đầu tiên trong đời nhà cách mạng – thi sĩ Tố Hữu.

Là người hành động, Tố Hữu nêu gương nhà thơ nhập cuộc dấn thân tích cực.Thời kháng chiến chống thực dân Pháp, Tố Hữu đã vào bộ đội và lăn lộn thật sự như người lính.

Bà Vũ Thị Thanh, người vợ thương yêu đã kể lại những kỷ niệm về những ngày ấy: “Vào khoảng năm 1949, anh tòng quân cùng các anh văn nghệ sĩ và sau nhiều lần hành quân tham gia chiến đấu cùng bộ đội trong chiến dịch Tây Bắc, anh bị thổ huyết nặng” (Vô cùng thương nhớ Anh…)(3).

Những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhiều lần nhà thơ đã vào tuyến lửa và mang về những “chùm hoa thơ nóng bỏng” góp phần đốt cháy lên ngọn lửa anh hùng cách mạng rực rỡ của con người dân tộc – dũng sĩ trong thời đại. Dù đã ở tuổi khá cao, năm 1973, không quản ngại gian lao, nguy hiểm, Tố Hữu vẫn làm cuộc hành hương vào chiến trường miền nam, dọc theo tuyến Trường Sơn – đường mòn Hồ Chí Minh để làm nên những câu thơ hùng tráng và bi tráng nữa về tiền tuyến lớn có sức lay động đến toàn quân:

Trường Sơn, xẻ dọc, rọc ngang

Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng.

Trường Sơn, vượt núi, băng sông

Xe đi trăm ngả, chiến công bốn mùa.

(Nước non ngàn dặm)

Tố Hữu đã sống đời người chiến sĩ thực thụ. Rất có thể vượt qua hoặc sẽ nằm lại vĩnh viễn nơi tiền tuyến vô vàn ác liệt ấy.

Dũng khí của Tố Hữu không chỉ là lòng quả cảm trước hiểm nguy của súng gươm, của bom đạn, chết chóc mặc dù hoàn cảnh ấy là thử thách căng thẳng nhất, dữ dội nhất, quyết liệt nhất đối với toàn bộ phẩm chất nhân cách của người chiến sĩ: chiến đấu hay đầu hàng, chết vinh hay sống nhục, anh hùng hay hèn nhát.

Dũng khí của nhà thơ chiến sĩ thể hiện ở toàn bộ cuộc đời bền bỉ, kiên định đấu tranh vì sự nghiệp cách mạng.

Xin trích dẫn đôi lời tiễn biệt:

“Gần 70 năm hoạt động cách mạng sôi nổi, ở mọi cương vị và mọi lĩnh vực công tác, dù được giao bất kỳ nhiệm vụ gì, đồng chí Tố Hữu cũng hoàn thành xuất sắc, một lòng, một dạ tận tụy vì sự nghiệp cách mạng, không quản ngại khó khăn, gian khổ, nêu cao truyền thống bất khuất, kiên cường của người đảng viên cộng sản trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ, anh dũng và vẻ vang của Ðảng và nhân dân ta” (Lời điếu trong Lễ tang).

Tố Hữu là một trong những nhà lãnh đạo từng gánh trên vai trọng trách của cuộc đấu tranh lịch sử hết sức lâu dài, khốc liệt nhằm giải phóng dân tộc, giành giữ độc lập, tự do trong thế kỷ 20, một “thế kỷ đau thương” và anh dũng với bao biến động dữ dội. Chiến sĩ gang thép Tố Hữu đã tự tôi luyện trong lửa đỏ đấu tranh và bão tố của cách mạng.

Sau hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, đất nước thống nhất đi vào thời kỳ xây dựng. Bắt đầu một cuộc đấu tranh không kém phần gian nan, vất vả, cực nhọc. Trước kia là cuộc đấu tranh quyết liệt để từ nô lệ đến tự do, từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến sướng vui. Giờ đây là đấu tranh cam go để từ đói nghèo đến ấm no, từ tụt hậu đến tiên tiến.

Tố Hữu tiếp tục dấn bước trong cuộc đổi thay có tính chất cách mạng mới, góp phần xóa bỏ một cơ chế đã không còn thích hợp với tiến triển trong thời cuộc, vận hội mới. Ông là một trong những người góp phần bước đầu tháo gỡ:

Gỡ lối “bao” xưa, người mọc cánh


(Ðêm cuối năm, 31-12-1981).

Dám chịu trách nhiệm, Tố Hữu góp phần vào những quyết định táo bạo đầy sáng tạo. Ông làm nhiệm vụ của nhóm người gieo hạt cho “một mùa hoa trái” hứa hẹn mai sau đang trở thành hiện thực tốt đẹp ngày hôm nay.

Những năm cuối đời, thấy rõ mặt trái của cơ chế thị trường, Tố Hữu vẫn có tâm sự: “Sẽ càng buồn hơn, nếu những người đứng trên mặt trận này” (mặt trận văn hóa, giáo dục – ÐTH) nhân nhượng trước đồng tiền, buông vũ khí”(4) và vẫn nghĩ về cái dũng khí của người cầm bút: “Người viết có quyền dùng ngòi bút can thiệp vào tất cả những việc nào mà anh ta thấy là cần thiết để đẩy lùi cái xấu, thúc đẩy cái tốt”(5).

Bản thân Tố Hữu dám viết những câu, có thể nói là xót xa nhưng đó là sự thật cuộc đời, không thể không lên án:

Gian tà dám bán rao đạo lý.

Tham nhũng leo thang bậc cửa quyền.

(Xuân 99)

Với Tố Hữu, nhà thơ luôn sống giản dị, thanh bạch, sống vui vì có niềm tin mãnh liệt vào tương lai của sự nghiệp cách mạng. Lạc quan, tin tưởng, kiên định, giữ vững chí khí ngay trong hoàn cảnh như bị bao vây bởi bao bức xúc của cuộc đời, đó cũng là dũng khí của người chiến sĩ đã qua tôi luyện của trăm nghìn lửa đỏ và nước lạnh:

Lòng tôi thanh thản, ung dung

Bão giật, gió rung

Vẫn xanh lá

Như cây tùng

Trên núi đá

Bởi tin yêu là sức mạnh vô cùng!

(Chào năm 2000)

Ðó cũng là tâm thế, là tư thế và khí thế mạnh gót những dặm dài vốn có của Tố Hữu – một nhà thơ – chiến sĩ luôn hăm hở với khúc hát:

Trên đường thiên lý, “ta lại đi”…

—————————–

(1) Nhà xuất bản Văn học và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học – 2003.

(2) Tố Hữu – người cộng sản kiên trung, nhà văn hóa tài năng. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.

(3) Tố Hữu – người cộng sản kiên trung, nhà văn hóa tài năng. SÐD.

(4) Anh Ðức – Ðầu xuân gặp nhà thơ Tố Hữu. Tố Hữu – Thơ và cách mạng. NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1996.

(5) Anh Ðức – Ðầu xuân gặp nhà thơ Tố Hữu. Tố Hữu – Thơ và cách mạng. SÐD.

ÐOÀN TRỌNG HUY

(www.nhandan.com.vn)